Multimedia Đọc Báo in

Lắng nghe âm thanh của đại ngàn

07:50, 09/11/2025

Xa xưa, tất cả các tộc người Tây Nguyên đều theo tín ngưỡng đa thần, vạn vật hữu linh. Muốn làm tốt bất cứ việc gì đều phải cầu xin các vị thần linh.

Để có thể thông thương được với các Yang (thần linh), thông báo sự kiện tới cộng đồng, người ta dùng âm thanh của các giàn cồng chiêng (gong ching) bằng đồng.

Đồng bào quan niệm vạn vật đều có linh hồn nên có rất nhiều Yang chi phối đời sống của con người. Vì vậy mà việc cầu khấn diễn ra liên tục theo nông lịch, theo vòng đời và theo những mối quan hệ xã hội. Để đa dạng thông tin, dần dà người ta quy định với nhau: cầu xin Yang này thì dùng âm thanh này, mời gọi Yang kia thì tấu âm thanh và nhịp điệu khác… Có hàng chục bài chiêng ra đời. Người buôn gần, buôn xa, nghe tiếng cồng chiêng mà biết sẽ diễn ra sự việc vui buồn gì.

Các bài chiêng được chia thành các nhóm: nhóm mời gọi các vị thần linh (Rieo Yang, drong Yang), nhóm thông báo với cộng đồng (ieo wit hgum), đón khách (Drông tuê). Chúng tôi còn lắng nghe tiếng xào xạc kể chuyện của rừng, tiếng gầm gừ ầm ào của thác, tiếng vi vút của gió hát, tiếng hào hển thở của nắng, tiếng rì rầm trò chuyện của dòng sông, con suối từ những bài chiêng ngẫu hứng như thác đổ (Drai ênai), mưa đá (yan pliêr), chong chóng quay (Kong Dar, Chiriria…)...

Rồi từ chỉ một dàn cồng chiêng, phát sinh thêm những nhạc cụ tre nứa lấy từ rừng, dùng âm thanh của cồng chiêng làm chuẩn (hluê ching), thêm phương tiện giải trí sau lễ và sau những ngày giờ lao động sản xuất. Thêm cả những câu chuyện thơ có vần (Klei Khan) về cội nguồn Êđê, về những chàng Dam kiêu hùng, những nàng H’Bia xinh đẹp, hát - kể suốt ngày này sang đêm nọ. Hàng trăm lượt người say mê lắng nghe…

Thanh âm của đại ngàn. Ảnh: Hữu Hùng

Người Êđê ở trong nhóm vài tộc người có nhiều nhạc cụ cổ truyền nhất. Ngoài dàn cồng chiêng với chức năng mời gọi thần linh và thông báo với cộng đồng, còn có nhạc cụ dùng để tự sự, tâm sự (đing buôt, tak tar, đing tút, goc); có nhạc cụ chỉ dùng để tỏ tình (gong, kni, bro), có nhạc cụ chỉ dùng trong tang lễ (đing năm, đing tút); nhạc cụ là hiệu lệnh tiến công (ky pah)…

Chính vì các lễ lạt diễn ra liên miên, đi kèm với nhu cầu tụ họp giải trí sau lễ và sau lao động sản xuất mà xưa kia thanh niên các dân tộc thiểu số Tây Nguyên có năng khiếu nghệ thuật rất cao. Họ sinh ra đã có âm nhạc trong lễ thổi tai báo với cộng đồng sự hiện diện của một sinh linh; có tiếng cồng chiêng đong đầy tâm hồn và đôi tai theo nông lịch của gia đình (dọn rẫy, cúng lúa trổ đòng, ăn cơm mới…); theo từng bàn chân lớn dần sau lễ trưởng thành (cưới hỏi, làm nhà, tạ ơn, chúc sức khỏe ông bà cha mẹ…). Các âm thanh ấy không chỉ vang động mà còn hiện diện một cách kiêu hãnh giữa núi rừng, sông suối.

 

Hãy đến quê tôi, lắng nghe âm thanh của những dàn cồng chiêng, mềm mại, trữ tình như âm ba ching chêng J’rai, Bahnar; tươi vui nhảy nhót như thanh âm cồng chiêng Sê Đăng; mạnh mẽ hào sảng như tiếng chiêng knah Êđê. Cả một “tập đoàn âm thanh” từ đồng, tre nứa, gỗ đá cất lên cuốn hút và mời gọi.

Tôi, một người phụ nữ Êđê đã bị mê hoặc từ thuở đứng chưa tới thắt lưng cha. Đã từng mải miết theo nhịp vòng xoang của tiếng chiêng J’rai náo nức, âm thanh cồng chiêng Bahnar trầm hùng, chiêng Xê Đăng rộn ràng thanh thoát, chiêng Êđê nhanh, mạnh mẽ. Và nhớ mãi sự bừng tỉnh rất lớn trong tâm hồn khi nghe tiếng đing tút bằng gốc rạ mà những người phụ nữ nông dân mang tới chào hỏi trong một căn nhà sàn ám khói bếp, tù mù ánh lửa ở M’Drắk vào năm 1980.

Từ đó, tôi chỉ còn lắng nghe. Lắng nghe lời gọi mời của các lễ hội uống nước giọt Bahnar (et tnok dak), ăn cơm mới Êđê (hoă esei mrâo), mừng lúa trổ đòng Jơ Lơng (Ét dong), bỏ mả J’rai (Pơ Thi), tạ ơn Xê Đăng (bơnê), chúc sức khỏe M’nông, với âm thanh rạo rực của những dàn cồng chiêng, hòa mình không chỉ trong thanh âm của âm nhạc mà còn trong cả niềm vui của cộng đồng.

Chỉ tiếc rằng, do nhiều nguyên nhân mà những âm thanh độc đáo tuyệt đẹp của âm nhạc và thiên nhiên Tây Nguyên không còn được dày đặc trong cộng đồng như thuở xưa. Lớp trẻ mải mê với bao nhiêu luồng thông tin, lối sống từ thế giới hiện đại đã không còn yêu mến, hiểu biết về phong tục tập quán của dân tộc, gần như từ bỏ để chạy theo “cái mới”, khiến không chỉ âm thanh của dân ca, nhạc cụ cổ truyền một thời gian dài vắng bóng, thậm chí còn có nhạc cụ biến mất hẳn. Cồng chiêng được cải tiến để tấu được cả nhạc 7 âm của phương Tây!

Cồng chiêng và múa M'nông trên sân khấu ở thủ đô Copenhagen (Đan Mạch).

May thay, sau khi UNESCO ghi danh cồng chiêng Tây Nguyên là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, đã có nhiều chuyển biến tích cực. Sự hiểu biết về văn hóa truyền thống các dân tộc được nâng lên, lan tỏa thông qua các chương trình truyền thông, tuyên truyền, vận động… Âm nhạc cổ truyền dần được hồi sinh. Hiện nay, ngoài liên hoan văn hóa cồng chiêng, còn có các chương trình biểu diễn nhạc cụ dân tộc thường xuyên cho du khách thưởng lãm, như các chương trình biểu diễn cồng chiêng trải nghiệm ở các phường trung tâm Tây Nguyên…

Du lịch cộng đồng lấy văn hóa bản địa, nhất là thanh âm của nhạc cụ làm điểm nhấn thu hút du khách trong và ngoài nước. Nhiều nhất, lan rộng phổ biến nhất là những lớp truyền dạy diễn tấu cồng chiêng cho thế hệ trẻ. Nhiều nghệ nhân ở các buôn làng tự nguyện mở lớp truyền dạy diễn tấu không chỉ cồng chiêng mà cả nhiều nhạc cụ cổ truyền khác. Các bạn trẻ hiện diện cùng thanh âm nhạc cổ truyền mỗi ngày một nhiều hơn, đông hơn trước công chúng, với một niềm tự hào, hãnh diện thấy rõ.

Âm nhạc Tây Nguyên đang hồi sinh nhiều hơn ở bên ngoài cộng đồng. Mừng hơn là thế hệ trẻ đã biết lắng nghe, biết cảm thụ cái hay, cái đẹp của âm thanh tộc người mình. Biết tự hào với bộ trang phục truyền thống không chỉ trong biểu diễn nghệ thuật dân gian mà còn trong các lễ cưới hỏi, sinh hoạt hằng ngày.

Và tôi, người đau đáu với sự mất còn của văn hóa Tây Nguyên, đã thấy tâm hồn mình được tĩnh lặng, trái tim mình được đập bình yên khi hơi thở của không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên phập phồng cùng nhịp sống trên miền cao nguyên đất đỏ.

Nào tay nắm tay, bước vào vòng xoang theo những thanh âm của rừng nhé…

Nhạc sĩ Linh Nga Niê kdam


Ý kiến bạn đọc


(Infographic) Đắk Lắk khẩn trương khắc phục hậu quả bão số 13 và mưa lũ
Trước thiệt hại nặng nề do bão số 13 (Kalmaegi) gây ra, ngày 7/11/2025, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Đắk Lắk đã ban hành công văn số181-CV/TU về việc khẩn trương khắc phục hậu quả bão số 13 và mưa lũ trên địa bàn tỉnh; trong đó yêu cầu các cấp, các ngành, địa phương khẩn trương huy động mọi lực lượng, tập trung khắc phục hậu quả, bảo đảm không để người dân nào thiếu ăn, thiếu mặc, không có chỗ ở, sớm ổn định đời sống và khôi phục sản xuất.