(E-magazine) Để liền lại vết thương chiến tranh…
Kỳ 1: Những "dấu lặng" sau cuộc chiến
![]() |
![]() |
![]() |
Tháng Bảy về, rưng rưng những nén hương tri ân và những câu chuyện chưa bao giờ cũ. Có người đã hy sinh, nằm lại trong lòng đất mẹ; có bước chân của người lính trở về vẫn khập khiễng trên những lối quê; có giọt nước mắt của người mẹ mất con vẫn chưa kịp khô trong đêm dài thăm thẳm; có nỗi đau lặng thầm của những gia đình có người thân mang trong mình di chứng chất độc da cam... Mỗi câu chuyện như được kể bằng trái tim, bằng ký ức và những mất mát không thể đong đếm được.
![]() |
Năm 1970, khi tuổi đời vừa tròn 16, chàng thanh niên Phạm Huy Nghệ đã nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, xung phong lên đường nhập ngũ từ quê hương Thái Bình.
Là người lính đặc công C1, D19, E116 đặc công miền (hoạt động khu vực ven Sài Gòn – Gia Định), nhiệm vụ của ông cùng đồng đội là mũi nhọn mở đường, nhiều lần đối mặt ranh giới mong manh giữa sống và chết; có những trận đánh máu và nước mắt hòa vào đất, đồng đội ngã xuống ngay bên cạnh, có khi chỉ cách nhau một tầm tay…
Trong những thời khắc nghiệt ngã nhất của chiến tranh, ông đã vinh dự được kết nạp Đảng ngay trước giờ nổ súng 30 phút trận đánh cầu Tân Cảng ngày 10/4/1975.
![]() |
![]() |
Sau giải phóng, ông Nghệ tham gia quân quản ở cư xá Kiến Thiết - Thủ Đức, sau đó được Nhà nước cử sang Bungari học lái máy gặt đập liên hợp, nhưng vì sốt rét tái phát nặng nên ông xin về nước. Năm 1977, ông vào Đắk Lắk làm cán bộ Phòng Nông nghiệp huyện Lắk.
Năm 1978, ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân về những thành tích trong suốt quá trình chiến đấu anh dũng của mình từ khi vào chiến trường cho đến hết Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Dù đã được vinh danh, nhưng ngọn lửa cống hiến trong ông chưa bao giờ tắt. Ông xin tái ngũ, đảm nhiệm nhiều vị trí quan trọng tại Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Thái Bình, Quân khu 3, rồi lại chuyển gia đình vào Đắk Lắk công tác tại Ban Chỉ huy Quân sự các huyện Lắk, Krông Ana. Năm 1993, ông nghỉ hưu với quân hàm Thiếu tá.
![]() |
![]() |
Trải qua những năm tháng cống hiến tuổi thanh xuân cho đất nước, trong thân thể ông đã chịu ảnh hưởng di chứng nặng nề của chất độc hóa học da cam/dioxin.
Bốn người con đầu của ông, dù chào đời trong hình hài khỏe mạnh, xinh xắn, nhưng chỉ sau vài tháng, cơ thể từng đứa trẻ ấy bắt đầu xuất hiện những biến dạng dị thường: lồng ngực co rút, chân tay dần teo tóp, tóc rụng thành từng mảng, đầu to bất thường, mắt lồi ra…
Các bác sĩ xác định bị dị dạng, dị tật ngoài môi trường. Khi tuổi đời chỉ mới chớm 1-2 năm, cả bốn đứa trẻ lần lượt rời xa vĩnh viễn, mang theo bao ước vọng chưa thành hình.
Hai người con đầu nằm lại nơi quê cũ Thái Bình, hai người con sau yên nghỉ trên mảnh đất Đắk Lắk - nơi ông gọi là quê hương thứ hai.
![]() |
![]() |
Chưa nguôi nỗi đau ấy, ông lại mất thêm một người con nữa vì tai nạn giao thông; nỗi mất mát chồng lên mất mát và cứ hiển hiện lặng lẽ trong ánh mắt ông mỗi khi nhắc về những đứa trẻ chưa kịp gọi tiếng “cha”, hóa thành niềm thương sâu kín trong giọng nói trầm khàn của người cựu chiến binh khi tuổi đã bóng xế.
Nỗi đau ấy như vết dao cứa vào tâm can người cha, người lính, nhưng ông âm thầm chịu đựng, không một lời than vãn. Bởi với ông, hiến dâng tuổi thanh xuân và cả cuộc đời cho Tổ quốc là một điều thiêng liêng, một lời thề không bao giờ thay đổi.
Ông xúc động chia sẻ khi bị đứt tay mình còn cảm thấy đau thì huống chi là đứa con của mình. Thế nhưng tôi vẫn động viên vợ và gia đình là phải cố gắng vì phận của mình như vậy rồi, sảy đứa con này thì sinh thêm đứa con khác. Và phải cảm ơn người vợ tảo tần của tôi, “người đàn bà thép”, rất kiên cường khi trải qua nhiều nỗi đau, mất mát ấy. May mắn sinh ra những cháu tiếp sau thì lành lặn, hoàn chỉnh. Cho đến thời điểm này, nhìn lại chặng đường đã qua tôi cảm thấy mình hạnh phúc lắm. Bởi có những đồng chí, đồng đội của tôi đã ngã xuống trong chiến tranh mà chưa kịp được hưởng hòa bình; có những đồng chí hiện nay cuộc sống vẫn còn nhiều vất vả, thiệt thòi, mất đi một phần thân thể...
![]() |
Tấm lòng ấy không chỉ dừng lại ở sự hy sinh cá nhân, mà còn thôi thúc ông tiếp tục hành trình không mệt mỏi: Đôi chân đã từng băng rừng vượt suối năm xưa, sau ngày hòa bình lập lại vẫn rong ruổi, lặng lẽ tìm kiếm hài cốt đồng đội. 11 đồng chí, đồng đội do chính tay ông chôn cất nơi chiến trường năm xưa đã được quy tập, nhưng hài cốt người anh trai hy sinh ở Đồng Nai đến nay vẫn chưa tìm thấy được, luôn là nỗi day dứt khôn nguôi trong ông…
![]() |
Trên chiếc giường gỗ cũ đặt ở cuối nhà, Mẹ Việt Nam Anh hùng Hồ Thị Chúng trú tại xã Quảng Phú (quê gốc ở huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định) lặng lẽ ngồi tựa lưng.
Ở tuổi ngoài 90, sức khỏe không còn cho phép Mẹ Chúng kể tường tận ký ức những tháng năm đạn bom nhưng từng nếp nhăn trên gương mặt mẹ vẫn in hằn vết tích của một đời tần tảo, âm thầm hy sinh, cống hiến cho hòa bình hôm nay.
![]() |
![]() |
Sinh ra giữa vùng đất bom đạn, Mẹ Chúng không chỉ nuôi dạy những người con anh dũng mà còn trực tiếp góp sức cho cách mạng. Căn nhà nhỏ của Mẹ từng là điểm tựa tin cậy của cách mạng. Mẹ âm thầm nuôi giấu cán bộ, che chở bộ đội giữa vòng vây lùng sục của địch. Trong căn bếp đơn sơ, Mẹ gói ghém từng nắm cơm, quả chuối gửi ra tiền tuyến. Những đêm mưa gió, mẹ giấu bộ đội trong hầm bí mật đào ngay sau vườn, canh gác bảo vệ các anh. Với mẹ, sự an toàn của các anh là điều thiêng liêng không kém gì mạng sống của những người thân trong nhà.
Bà Nguyễn Thị Tâm, con gái thứ tư của Mẹ Chúng kể lại: “Nhiều đêm cả nhà đã ngủ, Mẹ vẫn ngồi bên ngọn đèn dầu, tay lần chuỗi tràng hạt, miệng thầm khấn nguyện cho bộ đội được bình an. Có lần bị giặc nghi ngờ, Mẹ vẫn bình tĩnh đối đáp, kiên quyết không để lộ nơi giấu cán bộ. Với Mẹ việc nuôi giấu bộ đội, gìn giữ hầm bí mật không chỉ là trách nhiệm mà còn là vinh dự thiêng liêng”.
Sáu người con của Mẹ, cả trai lẫn gái đều nối tiếp truyền thống gia đình, không ai đứng ngoài cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong hành trình gian khổ ấy, hai người thân yêu nhất của Mẹ đã vĩnh viễn không trở về.
![]() |
![]() |
Năm 1966, trong một trận càn ác liệt của quân Mỹ, chồng Mẹ là liệt sĩ Nguyễn Thâm, cán bộ công an thôn đã hy sinh khi đang trên đường làm nhiệm vụ.
Giữa khói lửa chiến tranh khốc liệt, không ai biết chính xác ông ngã xuống ở đâu, cũng không một dòng tin tức nào gửi về cho gia đình. Mẹ và người thân lặn lội đi khắp nơi, dò hỏi từng đơn vị, từng người quen, mong tìm được manh mối, nhưng tất cả đều rơi vào im lặng.
Suốt 9 năm ròng, Mẹ sống trong mỏi mòn và hy vọng. Phải đến sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, đồng đội cũ mới tìm về báo tin buồn, chỉ nơi ông được chôn cất giữa rừng sâu. Từ đó, ngày 20/8, ngày Mẹ nhận giấy báo tử trở thành ngày giỗ ông.
Mẹ và gia đình đưa ông về an nghỉ tại Nghĩa trang liệt sĩ xã Nhơn Hạnh. Đây cũng là nơi yên nghỉ của người con trai thứ ba của mẹ, liệt sĩ Nguyễn Đình Thí, chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam hy sinh năm 1972 khi mới ngoài đôi mươi, trong một trận chiến ác liệt tại An Nhơn.
![]() |
![]() |
Với những đóng góp thầm lặng nhưng to lớn ấy, mẹ Chúng được Nhà nước trao tặng Huân chương kháng chiến hạng Nhì và phong tặng danh hiệu cao quý bà Mẹ Việt Nam Anh hùng. Quyết định phong tặng được treo trang trọng trên tường không chỉ là sự ghi nhận của Đảng và Nhà nước với những hy sinh, cống hiến và phẩm chất kiên trung của người phụ nữ trong suốt những năm tháng đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc mà còn là biểu tượng cho nghị lực phi thường, lòng trung thành sắt son và tình mẫu tử thiêng liêng giữa bão lửa chiến tranh.
![]() |
![]() |
Mẹ chồng của Mẹ Chúng là bà Trần Thị Sớt cũng được Nhà nước phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Bà chỉ có một người con trai duy nhất và người con ấy đã anh dũng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Trong căn nhà nhỏ của gia đình, hai tấm bằng danh hiệu của mẹ chồng và con dâu được treo trang trọng trên tường như một minh chứng thiêng liêng cho truyền thống cách mạng được gìn giữ và tiếp nối qua nhiều thế hệ.
Dẫu thời gian có thể làm phai mờ nhiều thứ nhưng trong ký ức những người thân yêu, hình bóng và tình cảm của Mẹ vẫn luôn nguyên vẹn. Bà Mai Thị Lý, con dâu thứ sáu của Mẹ Chúng chia sẻ: “Mỗi năm đến ngày giỗ ba và anh Thí, mẹ lại chuẩn bị mâm cơm cúng từ rất sớm, tự tay gói bánh, nấu chè như thể các anh vẫn còn đâu đó sẽ trở về. Bây giờ sức khỏe yếu, Mẹ chỉ nằm một chỗ nhưng vẫn căn dặn chúng tôi đừng quên ngày giỗ. Mẹ hỏi từng đứa cháu học hành thế nào, làm ăn ra sao. Cả đời Mẹ không nói nhiều nhưng luôn ấm áp nghĩa tình”.
![]() |
Đã nhiều năm rồi, người dân ở khu phố Liên Trì 2, phường Bình Kiến đã quen thuộc với hình ảnh thấp thoáng qua những chậu mai, chậu quất là một dáng người khập khiễng, lặng lẽ cúi mình bên gốc cây, tỉ mẩn cắt tỉa từng nhánh non. Đó là thương binh Nguyễn Văn Kiệt - người lính từng để lại một phần thân thể nơi chiến trường Campuchia, nay âm thầm vun trồng mùa xuân từ chính những nhọc nhằn cuộc đời.
Sinh năm 1968, khi vừa tròn 19 tuổi, anh thanh niên Nguyễn Văn Kiệt xung phong nhập ngũ, lên đường sang chiến trường nước bạn. Hai năm sau (1989), trong một trận truy quét gần sát ngày trở về nước, ông giẫm phải mìn và vĩnh viễn mất đi chân trái. Cuộc chiến kết thúc, trở về quê nhà mang trên mình “vết thương chiến tranh”, người thương binh ấy lại lặng lẽ trên hành trình mới với những đớn đau, hụt hẫng, trống trải giữa đời thường.
![]() |
![]() |
Trong hình hài không còn nguyên vẹn, tỷ lệ thương tật 51% và giấy chứng nhận bệnh binh 61%; không nghề nghiệp, không vợ con, không định hướng… những ngày đầu sau xuất ngũ là chuỗi thời gian ông “chiến đấu”, đối diện với chính mình trong sự thinh lặng. “Có lúc tưởng như không thể đứng dậy được nữa, chẳng biết đời mình phải bắt đầu lại từ đâu…”, ông nhớ lại.
Nhưng rồi, người lính năm xưa lại một lần nữa bám lấy sự sống, như từng bám địa hình trong chiến trận. Ông bắt đầu tập đi bằng chân giả, suy nghĩ tìm kế sinh nhai phù hợp với cơ thể không lành lặn của mình. Nhờ sống gần ngôi làng có nghề truyền thống trồng hoa, ông đã học cách chăm cây, làm đất, ươm mầm… những công việc tưởng như quá sức với một thương binh, nhưng lại trở thành cứu cánh cho cuộc đời tưởng chừng dang dở.
![]() |
Hơn 30 năm qua, người thương binh ấy vẫn âm thầm vun trồng hàng nghìn gốc mai, gốc quất. Những ngày trở trời, vết thương chiến tranh âm ỉ tái phát, buốt nhói như muốn nhắc lại ký ức không lành. Nhưng ông chưa từng bỏ cuộc.
Những mùa Tết đến, vườn hoa rộ nụ, cũng là khi thành quả bao tháng ngày đổ mồ hôi, chịu đựng đau nhức dần hiện rõ. Ít ai biết rằng, mỗi gốc cây ở đây là một minh chứng cho sự bền gan, cho những lần ông vật lộn với đau đớn và cả những mùa thất bát mà không một lời than vãn.
“Có hôm người đau nhức quá, tôi nghỉ một buổi; hôm sau lại đi ra vườn. Không làm là lại thấy mình vô dụng”, ông cười vui chia sẻ. Và cũng chính từ những gốc mai, gốc quất, ông đã gặp được người vợ hiện tại - người bạn đời đồng hành thầm lặng gần ba thập kỷ.
![]() |
Từ ngôi nhà được Nhà nước hỗ trợ cho thương, bệnh binh năm 2000, vợ chồng ông cùng nhau nuôi con, trồng thêm hoa và nuôi thêm hy vọng. Giờ đây, gia đình ông có thu nhập ổn định, mỗi năm lãi khoảng 150-200 triệu đồng từ vườn cây và xây dựng được cơ ngơi khang trang. Hai người con trai, con gái lần lượt ra đời năm 2000 và 2006, nay một người đã tốt nghiệp đại học, một người đang là sinh viên năm thứ hai tại Đà Nẵng.
Những vết thương chiến tranh, những vất vả đời thường, dường như không làm khó được người lính bộ đội cụ Hồ ấy. Giữa cuộc sống thanh bình, ông chỉ mong có đủ sức khỏe để tiếp tục lao động, góp sức dựng xây quê hương thêm giàu đẹp.
Kỳ 2: Thắp lửa tri ân
Nội dung: Lan Anh - Như Quỳnh - Kim Chi
Ảnh: PV, CTV
Trình bày: Công Định