Multimedia Đọc Báo in

Những “bóng hồng” quyền lực và tài năng

10:03, 15/04/2010

Ngày 8-3 năm nay đánh dấu tròn 100 năm ngày Quốc tế Phụ nữ được ghi nhận trên toàn cầu. Ở khắp nơi trên thế giới, phụ nữ vẫn đang nỗ lực cống hiến không mệt mỏi, góp phần đẩy nhanh sự phát triển chung của nhân loại. Xin giới thiệu một số “bóng hồng”  tài năng trong các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, khoa học và công tác xã hội.

Nữ chính khách quyền lực

 

Theo bảng xếp hạng của tạp chí Forbes, nữ Thủ tướng Đức Angela Merkel được xếp vị trí cao nhất trong số 100 người phụ nữ quyền lực nhất thế giới năm 2009. Đây cũng là lần thứ 4 bà đứng ở vị trí này.
Sinh tại Hambourg ngày 17-7-1954, Angela tốt nghiệp bằng tú tài với số điểm cao nhất vào năm 1973. Bà theo học ngành Vật lý, sau đó làm việc tại Viện Hóa Lý Trung ương rồi Viện Hàn lâm Khoa học Đông Berlin.
Ở độ tuổi 35, bà bắt đầu tham gia vào hoạt động chính trị. Từ năm 1991 đến năm 1998, bà đảm nhiệm chức Phó Chủ tịch Đảng Liên minh dân chủ Cơ đốc (CDU) và được giữ cương vị Bộ trưởng Bộ Phụ nữ và Thanh niên trong nội các của Thủ tướng Helmut Kohl. Sau đó, bà trở thành Bộ trưởng Bộ Môi trường và An toàn lò phản ứng hạt nhân, lĩnh vực rất nhạy cảm và được nhiều người quan tâm ở CHLB Đức. Chính trên cương vị đó, bà Merkel càng ngày càng được biết đến nhiều hơn ở trong và ngoài nước Đức.
Năm 1998, sau khi nội các của Thủ tướng Helmut Kohl thất bại trong cuộc tổng tuyển cử, bà Merkel đã trở thành Tổng Thư ký CDU. Chỉ trong vòng một năm, vị Tổng Thư ký mới này đã tạo một bước ngoặt trên chính trường Đức và mang về cho CDU hàng loạt những thắng lợi giòn giã tại 6/7 cuộc bầu cử cấp bang. Những thắng lợi ấy đã phá vỡ thế đa số của Liên minh đảng Dân chủ Xã hội Đức (SPD) và đảng Xanh tại Hội đồng Liên bang. Trong cuộc bầu cử năm 2009, bà lại được cử tri tín nhiệm bầu vào nhiệm kỳ mới ở cương vị này. Năm 2005, bà trở thành nữ Thủ tướng đầu tiên của CHLB Đức. Đến năm 2009, bà tái đắc cử Thủ tướng nhiệm kỳ thứ 2.
Thông thạo tiếng Anh, lưu loát tiếng Nga, bà còn thu hút được người đối diện bởi cách nói chuyện ý nhị giúp thu hẹp khoảng cách và tạo sự thân mật. 
Nữ doanh nhân thành đạt

 


Với cương vị Chủ tịch và cũng là cổ đông lớn nhất của tập đoàn Temp Staff, bà Yoshiko Shinohara là một trong số rất ít những nữ doanh nhân thành công tại Nhật Bản, quốc gia từ lâu nay vẫn chưa coi trọng giới nữ trong các hoạt động kinh doanh.
Ở Yoshiko Shinohara, người ta tìm thấy phong thái dịu dàng và vẻ khiêm tốn của người phụ nữ Nhật Bản truyền thống, nhưng cũng đồng thời thấy được sự năng động và quyết đoán của phụ nữ phương Tây.
Với số tiền 4.000 USD, Yoshiko đã bươn chải làm việc nhiều năm ở châu Âu và Australia. Năm 1973, ở tuổi 38, bà đã thành lập công ty Temp Staff. Thời gian đầu, Yoshiko phải vừa điều hành vừa đi dạy tiếng Anh vào buổi tối để kiếm thêm tiền trang trải các chi phí của công ty.
Bà Yoshiko Shinohara luôn được ngợi ca như là một trong những nữ doanh nhân “gan góc” nhất thế giới. Năm 1989, Yoshiko Shinohara nhận được Giải thưởng Kinh tế Nhật Bản lần thứ 14. Sau đó, với những đóng góp vào sự thành công của giới doanh nhân nữ, năm 1992 – 1993, Yoshiko Shinohara được tặng Giải thưởng Veuve Clicquot - Nữ doanh nhân của năm.
Năm 2007, tạp chí Entrepreneurs đã bình chọn Yoshiko Shinohara là một trong 50 nữ doanh nhân thành đạt nhất thế giới. Sự nghiệp của bà Yoshiko Shinohara đã được tạp chí kinh doanh uy tín Havard Business Review (do Trường Đại học Havard tại Mỹ xuất bản) chọn là trường hợp điển hình để phân tích và học hỏi kinh nghiệm.
Người phụ nữ đầu tiên đoạt Giải Nobel Kinh tế

 

Năm 2009 được đánh dấu là năm thành công rực rỡ của các nhà khoa học nữ với 5 giải Nobel được trao cho họ. Trong đó, nhà khoa học Elinor Ostrom được ghi vào lịch sử như là người phụ nữ đầu tiên giành Giải Nobel Kinh tế kể từ khi giải thưởng này được xác lập vào năm 1968.
Bà Elinor Ostrom sinh ngày 7-8-1933, là một nhà khoa học chính trị người Mỹ. Bà Ostrom học đại học, cao học và tiến sĩ ngành khoa học chính trị ở Trường Đại học California tại Los Angels. Hiện bà là giáo sư khoa học chính trị của Đại học Indiana cơ sở Bloomington. Bà được công nhận là nhà nghiên cứu hàng đầu trong lĩnh vực quản lý các nguồn lực công cộng. Bà từng là Chủ tịch Hội Khoa học Chính trị Mỹ. Trước khi nhận Giải Nobel Kinh tế, bà đã nhận một số giải trong lĩnh vực khoa học chính trị, như: giải Johan Skytte (năm 1999), giải James Madison (năm 2005), giải William H. Riker (năm 2008) và Tisch Civic Engagement Research Prize (năm 2009).
Tính đến nay, chỉ có 40 phụ nữ nhận giải Nobel kể từ khi những giải này được trao lần đầu tiên vào năm 1901.
Người quản lý quỹ từ thiện lớn nhất thế giới

 


Trong những năm gần đây, truyền thông thế giới thường nhắc đến bà Melinda Gates, phu nhân của tỷ phú Mỹ Bill Gates như một điển hình của những người phụ nữ nhân hậu, có một tấm lòng đáng trân trọng. Quỹ từ thiện “Bill & Melinda Gates Foundation” do vợ chồng bà sáng lập được xem là quỹ từ thiện lớn nhất thế giới với giá trị xấp xỉ 38 tỷ USD.
Báo chí Mỹ thường nhắc đến bà Melinda với một câu mô tả khá ấn tượng: “Sống với Bill, làm việc với Buffett, nuôi dạy con cái trong dinh thự đồ sộ được trang bị toàn công nghệ tối tân nhất và cai quản một quỹ từ thiện lớn nhất thế giới”.
Ngay khi còn học trung học, Melinda đã là người hoạt động xã hội hăng hái. Ngoài các hoạt động trong trường trung học công giáo dành riêng cho các nữ sinh mà bà theo học, bà còn tham gia những hoạt động thiện nguyện cho bệnh viện, tình nguyện dạy kèm tại các trường công lập cho các em học sinh yếu kém. Để được lọt vào những trường đại học danh tiếng, Melinda biết rằng bà phải là học sinh tốt nghiệp thủ khoa hay á khoa ở trường này thì mới có cơ hội. Và thế là bà đã cố gắng để trở thành học sinh đứng đầu của trường.
Bà Melinda thường chia sẻ quan điểm này với thanh niên Mỹ qua một số phương tiện truyền thông: “Hãy nhớ rằng các bạn mang một món nợ đời cho đến khi bạn giúp được cho một ai đó kém may mắn hơn bạn, theo như cách mà bạn đã được nâng đỡ từ bất cứ ai, dù chỉ là những điều nhỏ nhặt nhất”. Vợ chồng bà cho biết sẽ chỉ để lại cho con cái của cải đủ để chúng sống thoải mái và có đủ tiền để theo đuổi những gì mà chúng muốn, còn khoảng 95% tài sản họ sẽ đem tặng cho các mục đích công.

Theo SGGP

 


Ý kiến bạn đọc