Multimedia Đọc Báo in

Các thuốc không được dùng khi mắc sốt xuất huyết

14:39, 25/08/2010

Bệnh sốt xuất huyết (SXH) gây ra các rối loạn trong cơ thể, đặc biệt SXH có sốc làm giãn mạch mạnh, làm cho huyết tương thoát ra ngoài thành mạch nhiều, dẫn đến máu bị cô đặc, lượng máu lưu thông giảm, gây tụt huyết áp, tim nhanh rồi trụy tim mạch. Do đó, việc dùng thuốc nhằm lập lại thăng bằng, chống lại các triệu chứng bất lợi do SXH gây ra. Tuy nhiên, nếu dùng không đúng thuốc, không đúng cách thì các rối loạn này sẽ tiến triển theo hướng xấu, khiến bệnh trầm trọng thêm. Dưới đây là các thuốc thường dùng và không được dùng khi mắc SXH.

 1.Dùng thuốc hạ nhiệt:

 - Chỉ dùng Paracetamol: Loại thuốc này độc với gan, thận nhưng tính độc này chỉ xảy ra khi dùng liều rất cao (15g/ngày với người lớn) và lâu dài hay khi dùng cùng với nhiều rượu (rượu làm cạn kiệt nguồn Glutathion để chuyển hóa Paracetamol thành chất không độc). Còn khi dùng với liều điều trị (thấp hơn nhiều so với liều trên) trong thời gian ngắn từ 2-5 ngày để hạ sốt thì Paracetamol không gây độc cho cả người lớn lẫn trẻ em. Liều dùng trong điều trị SXH: Một lần: 15mg/kg thể trọng (750mg cho người 50kg), một ngày dùng 2-3 lần (1.500mg-2.250mg).
 
- Không được dùng Aspirin: Trong SXH có hiện tượng chảy máu. Aspirin  ngăn sự tập kết tiểu cầu, chống đông máu nên làm cho việc chảy máu do SXH gây ra không cầm được (nhất là xuất huyết đường tiêu hóa). Kết quả làm cho bệnh trầm trọng thêm.  Do vậy, trong SXH, không được dùng Aspirin cho cả người lớn và trẻ em. Đặc biệt, với trẻ em, Aspirin là yếu tố thúc đẩy gây hội chứng  Reye (phù não và suy gan nhiễm mỡ với tỷ lệ tử vong khoảng 30-50%, nếu sống sót cũng để lại di chứng tổn thương não vĩnh viễn). Ngoài ra, Aspirin còn làm tăng độ acid (vốn thấp ở dạ dày trẻ), gây bỏng rát viêm đường tiêu hóa, nặng hơn gây xuất huyết đường tiêu hóa. Vì thế, trong mọi trường hợp đều không được dùng Aspirin với trẻ nhỏ.

- Không dùng kháng viêm không steroid: Tuy không làm ngưng tập kết tiểu cầu mạnh như Aspirin nhưng các kháng viêm không steroid đều có tính này (với các mức khác nhau) nên cũng làm cho việc chảy máu trong SXH không cầm được. Hiện nay, trên thị trường có các loại thuốc cấm (bán không cần đơn) trong thành phần thường có chứa kháng viêm không steroid như alaxan chứa  kháng viêm không steroid (ibuprofen). Do đó, người bệnh cần tránh dùng nhầm các biệt dược loại này.

 

SXH 2.JPG
Điều trị bệnh nhân sốt xuất huyết tại Bệnh viện Đa khoa TP. Buôn Ma Thuột.        Ảnh: K.O

2. Dùng dịch truyền:

 - Ưu tiên bù dịch bằng đường uống: Người bệnh SXH rất nhạy cảm, dễ bị sốc phản vệ. Do vậy, nếu SXH ở độ I  và đầu độ II thì cần ưu tiên bù dịch bằng đường uống với Oresol. 

- Chỉ truyền dịch khi cần thiết: Khi SXH ở cuối độ II hay đầu độ III, huyết tương thoát ra ngoài mạch nhiều, thể tích máu trong lòng mạch giảm sút, sốt cao làm mất nước, làm cho sự giảm sút này tăng thêm, máu bị cô đặc lại, huyết áp tụt xuống, tim nhanh dẫn đến trụy tim mạch cho nên cần truyền dịch. Dịch bị mất trong trường hợp này là “mất nước nhiều hơn mất muối” nên dung dịch truyền phải chứa ít muối. Tốt nhất là chọn dung dịch Riger lactat (chứa Natri clorid + Kali clorid + Canxi clorid + Natrilactat). Trong trường hợp không có Riger lactat  thì trộn dung dịch Glucose đẳng trương (5%) với dung dịch Natri clorid đẳng trương (0,9%) mỗi loại 50%. Khi SXH rất nặng, truyền các dung dịch này mà không nâng được huyết áp thì dùng các dung dịch cao phân tử  nhưng phải dùng ở nội viện.

 - Liều lượng và thời gian bù dịch: Cần bù đủ lượng dịch bị mất trong vòng 24 giờ nhưng trong 8 giờ đầu chỉ bù 50% và 16 giờ sau bù tiếp 50% lượng dịch bị mất. Với trẻ em, lượng dịch cần bù bằng P1 (thân trọng lúc chưa mắc bệnh) trừ đi P2 (thân trọng khi mắc bệnh).  Còn với người lớn, SXH độ II ở giờ đầu liều dùng từ 6-7mg/kg/giờ, ở giờ thứ hai và ba liều dùng là 5ml/kg/giờ, ở giờ thứ tư và năm liều dùng 3ml/kg/giờ. Theo đó tính ra ở SXH  độ II ở một người nặng trong các thời điểm trên lượng dịch truyền sẽ là 1.150ml. Với SXH độ III,  truyền nhiều hơn ứng với các thời gian trên  là lần lượt  là các liều:từ 15-20ml/kg/giờ, 10ml/kg/giờ và 7,5 ml/kg/giờ.
 
Lưu ý: Truyền thừa dịch sẽ gây rối loạn cân bằng muối nước, rõ nhất là ứ nước trong các mô, tổ chức, hay gặp nhất là tràn dịch màng phổi. Thêm nữa, trong Ringer lactat có Kali nên khi truyền thừa Kali sẽ có hại cho tim.

3. Không cần dùng kháng sinh 

 Dùng kháng sinh nhằm làm yếu virut,  tạo điều kiện thuận lợi cho kháng thể tiêu diệt virut bằng cách thực bào. Trong SXH, kháng thể không tiêu diệt được virút mà trái lại làm cho virut phát triển nên việc dùng kháng sinh không có ý nghĩa. Hơn nữa, trong SXH, máu bị cô đặc, dùng nhiều kháng sinh bao vây sẽ làm cho nồng độ kháng sinh máu cao, dễ gây tai biến.

K.O (nguồn NLĐ)

 


Ý kiến bạn đọc