Multimedia Đọc Báo in

Cách phát hiện sớm bệnh Parkinson ở người cao tuổi

18:12, 20/04/2011

Parkinson (hay bệnh liệt rung) là loại bệnh lý thoái hóa thần kinh, diễn biến mạn tính và thường gặp ở người cao tuổi (NCT). Bệnh này gây ảnh hưởng đến tình trạng cử động, thăng bằng và kiểm soát cơ của bệnh nhân,có thể dẫn tới sự sa sút trí tuệ.

Dấu hiệu hay gặp nhất ở người cao tuổi bị Parkinson là giảm động tác - tăng trương lực hoặc run. Ngay từ khi khởi phát, các triệu chứng có thể đầy đủ ở cả hai bên với giảm động tác, tăng trương lực, run và rối loạn thăng bằng. Triệu chứng về tâm thần thường nặng và tiến triển nhanh. Giảm động tác là rối loạn vận động hay gặp nhất với biểu hiện: mất các động tác tự động sơ cấp và giao thoa với các hoạt động tự phát. Bệnh nhân khó đứng lên khi đang ngồi ghế, khi bắt đầu bước thường khó khăn, bước chân ngắn, rối loạn các động tác vung tay giữ thăng bằng khi đi, khó giữ thăng bằng khi dừng lại. Bệnh nhân có vẻ mặt bất động, vận động của mắt vẫn tốt, nhất là nhìn xuống nhưng động tác chớp mắt lại giảm. Chữ viết của bệnh nhân ngày càng nhỏ tới mức không đọc được, đây có thể là một triệu chứng đầu tiên của bệnh. Tăng trương lực cơ có tính chất tạo hình và hiện tượng răng cưa, xảy ra ở các cơ đối trọng, làm cho bệnh nhân có một tư thế đặc biệt: đầu nghiêng, lưng gù, đầu gối hơi gập. Bệnh nhân thường phàn nàn khó mặc quần áo, khó cài khuy, khâu vá, khó ăn... Tăng trương lực thấy rõ ở tư thế đứng hơn là tư thế nằm, tăng lên khi bệnh nhân mệt mỏi hay lo lắng. Tăng trương lực rõ hơn khi co cơ đôi bên. Run xuất hiện từ từ, có đặc điểm là run ở trạng thái nghỉ, khi các cơ đang giãn và biến mất khi bệnh nhân làm động tác hữu ý hoặc thay đổi tư thế.

Run tay, chân là một trong các biểu hiện của bệnh parkinson. Ảnh: TL

Run là biểu hiện thường thấy ở người mắc bệnh Parkinson. Run tăng lên khi bệnh nhân mệt mỏi, xúc động hoặc phải tập trung tinh thần. Run trong bệnh Parkinson không phải là triệu chứng luôn có mặt, run nhất ở tay khiến mọi cử chỉ trở nên vụng về, kém chính xác, dễ gây đổ vỡ... Run đầu chi xuất hiện sớm rồi dần dần lan xuống gốc chi và khu trú ở một bên trong cơ thể trong những năm đầu. Tuy vậy, có những bệnh nhân hoàn toàn không bị run. Ngoài ra hội chứng tăng trương lực cơ, các biểu hiện tâm trí như lú lẫn, giảm trí nhớ, giảm khả năng suy nghĩ, sáng tạo, trầm cảm khiến bệnh nhân buồn bã, giảm mọi ham muốn...

Ngoài ra, các rối loạn về thần kinh thực vật cũng là triệu chứng dễ thấy ở người bệnh. Rối loạn dáng đi ngay từ khi khởi phát gặp ở 36% bệnh nhân. Biểu hiện là bước chân ngắn, giảm các động tác phối hợp giữa thân mình và hai tay rất đặc biệt. Bệnh nhân thường khó khi bắt đầu bước, bước đi không chắc chắn, có xu hướng bước giật lùi hoặc ngược lại, bước nhanh dần về phía trước, có khi đang đi bệnh nhân dừng lại đột ngột, không thể bước chân lên được. Rối loạn về tâm thần: lú lẫn tái phát nhiều lần trong giai đoạn khởi phát của bệnh gặp từ 50 - 65% bệnh nhân, trong đó gặp nhiều nhất ở những người đã bị sa sút trí tuệ hoặc rối loạn tâm thần. Rối loạn nhận thức nhẹ: mất tính tự phát, giảm trí tưởng tượng, giao tiếp nghèo nàn, rối loạn nhẹ về trí nhớ... Các test về trí nhớ cho thấy bệnh nhân có rối loạn về khả năng nhắc lại trong khi khả năng nhận biết, nhất là các sự kiện cũ hoặc những sự kiện mới xảy ra vẫn còn tốt. 

Song song với việc dùng thuốc, tập phục hồi chức năng cũng đóng vai trò quan trọng đối với người mắc bệnh parkinson. Ảnh: K.O

Hiện nay chưa có cách điều trị dứt điểm parkinson, nhưng có thể ổn định bệnh bằng sử dụng (đơn độc hoặc kết hợp) một số thuốc điều trị triệu chứng. Để điều trị bệnh parkinson, thuốc levodopa là loại thuốc được chọn lựa đầu tiên, có tác dụng chủ yếu lên hội chứng giảm động tác - tăng trương lực. Trên 80% bệnh nhân đáp ứng tốt với levodopa trong giai đoạn đầu, nhưng 20 - 50% bệnh nhân bắt đầu xuất hiện hiện tượng dao động sau 3 - 5 năm điều trị. Hiện tượng dao động có đặc điểm là chuyển từ hội chứng giảm động tác nặng sang rối loạn động tác do thời gian tác dụng của levodopa ngày càng giảm dần trong quá trình điều trị. Để hạn chế hiện tượng này, người bệnh nên chia nhỏ liều hoặc phối hợp với các thuốc chủ vận dopamin. Bệnh nhân có tăng trương lực về đêm gây mất ngủ, nên tăng liều buổi chiều hoặc dùng một liều duy nhất vào buổi tối loại tác dụng chậm. Đặc biệt, tránh dùng levodopa trong các trường hợp: suy tim hoặc suy mạch vành không ổn định, loét dạ dày, tá tràng tiến triển, bệnh tâm thần nặng. Bên cạnh đó, các thuốc chủ vận dopamin có tác dụng làm giảm hiện tượng dao động cũng được sử dụng trong điều trị bệnh parkinson. Thuốc bromocriptin tác dụng lên cả 3 triệu chứng chính của bệnh parkinson: run, tăng trương lực - giảm động tác. Tuy nhiên, do thuốc có tác dụng phụ gây hoang tưởng, mê sảng, mất ngủ cho nên phải hạn chế sử dụng ở NCT.

Ngoài việc sử dụng thuốc để điều trị, việc tập luyện phục hồi chức năng cũng đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì chất lượng cuộc sống của người bệnh.

Một số nghiên cứu về bệnh Parkinson cho thấy: từ 50 - 70% bệnh nhân có tình trạng trầm cảm, giảm ham muốn; 50 - 55% rối loạn về tiêu hoá và tiểu tiện; khó nuốt làm cho bệnh nhân ăn rất lâu mới xong bữa; táo bón gặp 50 - 60%, tuổi càng cao tỷ lệ càng tăng; rối loạn về tim mạch: giãn tĩnh mạch hay gặp ở nữ giới, phù chi dưới, tụt huyết áp tư thế đứng; đau các cơ ở gốc chi và chi dưới do sự tăng trương lực cơ; rối loạn về ngữ điệu nói; rối loạn về khớp thường gặp ở các khớp bàn tay và gây những biến dạng, hạn chế động tác.

K.O (nguồn SK&ĐS)


Ý kiến bạn đọc