Nhà thơ Giang Nam và những kỷ niệm về bài thơ "Quê hương"
Nha Trang những ngày cuối năm, được trò truyện cùng nhà thơ Giang Nam, nghe ông tâm sự, nhắc những kỷ niệm về bài thơ “Quê hương” thật thú vị.
Tuy đã 83 tuổi nhưng nhà thơ Giang Nam vẫn còn minh mẫn và khỏe khoắn. “Người già nhưng tâm hồn thì cứ phải trẻ, như thế cuộc sống sẽ thư thái hơn. Ngoài những giờ đánh vật với chữ nghĩa, hội họp này nọ tôi lại đi tập dưỡng sinh…”, ông cười và chia sẻ. Lối sống ấy như thêm sức mạnh cho ông, để nay khi đã ngoài 80 ông vẫn ngày ngày cần cù "cày cuốc" trên cánh đồng chữ nghĩa.
Dù đã ngoài 80 tuổi nhưng nhà thơ Giang Nam vẫn miệt mài sáng tác. |
Qua những lời trò chuyện, một quá khứ đầy ắp những kỷ niệm từ ngày còn ở độ tuổi thanh xuân của ông được tái hiện. “Tôi được giác ngộ cách mạng từ năm đôi mươi, lại có anh trai là nhà cách mạng Nguyễn Lưu Truyền, anh ấy luôn là tấm gương, là động lực cho tôi, nên trong lòng luôn tràn đầy bầu nhiệt huyết, sẵn sàng chiến đấu vì độc lập dân tộc. Khi bước vào hoạt động cách mạng tôi đã được cán bộ giao làm nhiệm vụ tuyên huấn, đó cũng như là cái duyên gắn bó tôi với văn nghệ và thơ ca”.
Những ngày tháng tham gia hoạt động cách mạng, Giang Nam đã gặp gỡ và đem lòng yêu bà Nguyễn Thị Chiều – người phụ nữ sau này trở thành bạn đời của ông, luôn sát cánh bên ông trong suốt cuộc hành trình và bà cũng là người khơi nguồn cảm hứng dạt dào cho bài thơ “Quê hương”. Tình yêu thật đẹp trong những ngày lửa đạn, họ yêu nhau và đến với nhau từ những điều đơn giản nhất. Ông kể: “Chúng tôi làm cùng ở cơ quan Dân chính Phú Khánh. Tôi rất thích cô ấy, nhưng bên cạnh vợ tôi lúc đó còn có nhiều người theo đuổi nên chỉ còn cách mỗi lần đến đưa công văn có gửi cho cô ấy một lá thư chứ không dám hỏi thêm gì. Viết thư cũng chỉ dám hỏi mấy câu đơn giản như: “Anh có ý thích em, em nghĩ thế nào?”. Tôi bồn chồn chờ đợi suốt cả tuần lễ khi lá thư thứ hai gửi đi mà không thấy hồi âm, chờ mãi cuối cùng cũng nhận được thư trả lời. Từ đó tình cảm giữa chúng tôi ngày một lớn lên, sau đó không lâu, năm 1955 chúng tôi đã làm đám cưới”.
Cưới xong ở với nhau vỏn vẹn được hai ngày, ông lại phải nhận nhiệm vụ mới ở Bình Định. Đây cũng là cái mốc đánh dấu cho những chuỗi ngày xa nhau đằng đẵng của ông bà. Phần mình, ông miệt mài với công việc tổ chức giao, âm thầm tham gia tờ báo hợp pháp với tên gọi “Gió mới” hoạt động công khai tại nội thành Nha Trang. Khi Mỹ - ngụy tiến hành các đợt “tố cộng”, “diệt cộng”, cán bộ đảng viên ở miền Nam phải tổ chức đổi vùng để tránh bị lộ, tổ chức đã sắp xếp để ông bà chuyển vùng hoạt động về Biên Hòa. “Lần đoàn tụ này chúng tôi vô cùng xúc động nhưng vẫn phải giữ bí mật tuyệt đối cho cách mạng. Cũng tại Biên Hòa, vợ tôi sinh đứa con gái đầu lòng và cũng là duy nhất cho đến giờ. Ngay sau khi vợ sinh, tôi được tổ chức rút về lại Khánh Hòa. Sau đó không lâu, vào một buổi tối giữa năm 1960, ngoài trời mưa tầm tã, tôi được cấp trên gọi lên trấn an tư tưởng, thăm hỏi động viên rồi thông báo tin chẳng lành có thể vợ và con gái tôi đã bị địch giết hại trong nhà tù Phú Lợi (tại tỉnh Sông Bé cũ, nay là tỉnh Bình Dương). Đau đớn đến bàng hoàng, sự thương cảm xót xa cứ thế trào lên. Tất cả những kỷ niệm cũ, tình yêu nghẹn ngào, những giận hờn và buổi chia tay đầy nước mắt như sống dậy xót xa, nhức nhối, tôi đã bật khóc nức nở và chỉ trong một giờ đồng hồ tôi đã viết xong bài thơ “Quê hương”. Viết liền mạch, không tẩy xóa, không thay đổi gì cả… Tình yêu với Tổ quốc, với vợ con là chất xúc tác để tôi làm bài thơ này”.
Những kỷ niệm chiến trường in sâu trong ký ức lại chợt ùa về, ông thổ lộ: “Với tôi, đau thương cũng là một sức mạnh. Sau khi làm xong bài “Quê hương” tôi đưa cho cấp trên đọc, ngay lập tức nhận được sự đồng cảm. Rồi sau đó ít ngày tôi gửi bài thơ ấy cho báo Thống Nhất ở Hà Nội. Tháng 9-1961 khi đang trên đường công tác ở huyện Khánh Vĩnh (Khánh Hòa), tôi bất chợt nghe Đài Tiếng nói Việt Nam đọc bài thơ “Quê hương” của mình và thông báo được giải Nhì báo Văn Nghệ. Trong giây phút vui mừng đó, tất cả hình ảnh người vợ thân yêu cùng đứa con nhỏ của mình lại trở về nguyên vẹn trong tôi. Thêm một lần nữa tôi bật khóc. Mỗi câu thơ trong bài “Quê hương” đều hàm chứa hình ảnh người vợ của tôi. Cũng từ đó, tôi lao vào làm thơ phục vụ cách mạng, làm báo tuyên truyền cổ vũ đồng chí của mình như một nhiệm vụ cao cả”.
Cuộc sống luôn hàm chứa những bất ngờ, cứ đinh ninh vợ, con đã bị địch giết chết nhưng giữa năm 1962, bà Chiều và con gái bất ngờ được thả về do địch không tìm ra căn cứ kết tội. Nỗi vui mừng chưa được bao lâu, năm 1968, vợ ông lại bị địch bắt lần thứ hai cho đến mãi năm 1973 mới được thả về. Nhắc đến thời kỳ này, giọng ông lại trĩu buồn: “Suốt hai lần vào tù, ra tội, những ngày dài sống đằng đẵng trong xà lim, đứa con gái duy nhất của tôi vẫn phải bám sát lấy mẹ. Ai có tách ra nó cũng không chịu. Có những ngày bị lạnh tím tái tưởng chừng như đã ra đi. May thay vợ và con tôi vẫn khỏe mạnh. Lần ra tù thứ hai cũng nhờ nhiều vào một người luật sư, họ bào chữa một cách vô tư. Sau này giải phóng tôi có đi tìm lại người đó để cảm ơn nhưng không gặp được”.
Sau ngày thống nhất đất nước, năm 1976, theo điều động của tổ chức, ông làm việc tại TP. Hồ Chí Minh. Năm 1978, chấp hành ý kiến của cấp trên, ông ra Hà Nội làm Thường trực Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1989 (tách tỉnh Phú Khánh thành 2 tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa), Tỉnh ủy Khánh Hòa xin ông về làm Phó chủ tịch UBND tỉnh, phụ trách văn xã. Nhưng dù ở cương vị nào, ông vẫn luôn gắn bó với thơ ca bởi nó đã ăn sâu vào tiềm thức và đúng như lời ông nói: “Có về nơi cuối trời vẫn đáu đáu với quê hương, với thơ ca. Được sống vì lý tưởng của Đảng, làm việc phục vụ nhân dân lại được nhiều người quý trọng và nhớ đến bài thơ “Quê hương” nên tôi vẫn miệt mài viết, viết cho đến hơi thở cuối cùng mới thôi”.
Bao nhiêu năm đã đi qua, biết bao tác phẩm, tập thơ và các thể loại khác được ông sáng tác trong sự miệt mài. Nhưng bài thơ “Quê hương” vẫn là một điểm nhấn quan trọng trong suốt hành trình cuộc đời của ông, vì đó là đứa con tinh thần giúp ông vượt qua những nỗi đau. Với nhà thơ Giang Nam, có lẽ thế đã là quá đủ, bởi “Quê hương” – đứa con ra đời bằng nước mắt, gắn bó với máu thịt mình cũng sẽ theo ông suốt một đời gắn bó với thơ ca. Và trong mỗi chúng ta, khi được nghe những vần thơ da diết của “Quê hương” có ai lại không bồi hồi!
Lê Khắc Niên
Ý kiến bạn đọc