Tìm hiểu về Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
(Tiếp theo)
IV. CĂN CỨ XÁC ĐỊNH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC
Theo quy định của Luật TNBTCNN thì căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được quy định tại Điều 6, cụ thể:
“1. Việc xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án phải có các căn cứ sau đây:
a) Có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật và thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường quy định tại các điều 13, 28, 38 và 39 của Luật này;
b) Có thiệt hại thực tế do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra đối với người bị thiệt hại.
2. Việc xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự phải có các căn cứ sau đây:
a) Có bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người bị thiệt hại thuộc các trường hợp được bồi thường quy định tại Điều 26 của Luật này;
b) Có thiệt hại thực tế do người tiến hành tố tụng hình sự gây ra đối với người bị thiệt hại.
3. Nhà nước không bồi thường đối với thiệt hại xảy ra trong các trường hợp sau đây:
a) Do lỗi của người bị thiệt hại;
b) Người bị thiệt hại che giấu chứng cứ, tài liệu hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật trong quá trình giải quyết vụ việc;
c) Do sự kiện bất khả kháng, tình thế cấp thiết”.
Quan hệ pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được Luật TNBTCNN coi là một trong những dạng của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định của pháp luật dân sự. Chính vì vậy, ngoài những điểm giống nhau thì giữa trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng có những điểm khác biệt, cụ thể là:
- Điều kiện chung
So với các điều kiện chung về xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, các điều kiện xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước theo quy định của Luật có những điểm giống sau đây:
Một là, phải có thiệt hại xảy ra;
Hai là, thiệt hại là do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra.
- Điều kiện đặc thù
Những yếu tố đặc thù về xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước bao gồm:
Một là, không quy định lỗi là một căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (trừ trường hợp xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự, tố tụng hành chính và thi hành án dân sự);
Hai là, hành vi gây ra thiệt hại của người thi hành công vụ phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định là trái pháp luật;
Ba là, hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại của người thi hành công vụ phải thuộc các trường hợp được bồi thường mà Luật quy định.
V. CÁC LOẠI THIỆT HẠI ĐƯỢC BỒI THƯỜNG
Luật TNBTCNN quy định các loại thiệt hại được bồi thường trong 07 điều (từ Điều 45 đến Điều 51), cụ thể bao gồm:
- Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm (Điều 45);
- Thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút (Điều 46);
- Thiệt hại do tổn thất về tinh thần (Điều 47);
- Thiệt hại về vật chất do người bị thiệt hại chết (Điều 48);
- Thiệt hại về vật chất do bị tổn hại về sức khỏe (Điều 49);
- Quy định về trả lại tài sản trong trường hợp tài sản bị thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu (Điều 50);
- Quy định về khôi phục danh dự cho người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự (Điều 51).
Cần lưu ý, khi xác định thiệt hại để giải quyết bồi thường, chỉ áp dụng quy định của Luật TNBTCNN và các văn bản hướng dẫn thi hành mà không áp dụng BLDS và các văn bản hướng dẫn thi hành BLDS.
1. Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm
1.1. Các trường hợp thiệt hại do tài sản bị xâm phạm
- Tài sản đã bị phát mại, bị mất;
- Tài sản bị hư hỏng;
- Thiệt hại do việc không sử dụng, khai thác tài sản;
- Thiệt hại phát sinh từ việc phải nộp một khoản tiền vào ngân sách nhà nước theo các quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
1.2. Căn cứ xác định thiệt hại do tài sản bị xâm phạm
a) Trường hợp tài sản đã bị phát mại, bị mất thì thiệt hại được xác định căn cứ vào giá thị trường của tài sản cùng loại hoặc tài sản có cùng tính năng, tiêu chuẩn kỹ thuật và mức độ hao mòn của tài sản đã bị phát mại, bị mất trên thị trường tại thời điểm giải quyết bồi thường.
b) Trường hợp tài sản bị hư hỏng thì thiệt hại được xác định là chi phí có liên quan theo giá thị trường tại thời điểm giải quyết bồi thường để sửa chữa, khôi phục lại tài sản; nếu tài sản bị hư hỏng không thể sửa chữa, khôi phục thì thiệt hại được xác định theo quy định tại điểm a nêu trên.
c) Trường hợp có thiệt hại phát sinh do việc không sử dụng, khai thác tài sản thì thiệt hại được xác định là thu nhập thực tế bị mất. Đối với những tài sản trên thị trường có cho thuê thì thu nhập thực tế bị mất được xác định phù hợp với mức giá thuê của tài sản cùng loại hoặc tài sản có cùng tiêu chuẩn kỹ thuật, tính năng, tác dụng và chất lượng tại thời điểm giải quyết bồi thường; đối với những tài sản trên thị trường không có cho thuê, thu nhập thực tế bị mất được xác định trên cơ sở thu nhập do tài sản bị thiệt hại mang lại trong điều kiện bình thường trước thời điểm thiệt hại xảy ra; nếu tài sản bị kê biên được giao cho người bị thiệt hại hoặc người khác quản lý thì chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại về tài sản được xác định là những thiệt hại được bồi thường.
d) Các khoản tiền đã nộp vào ngân sách nhà nước theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bị tịch thu, thi hành án, khoản tiền đã đặt để bảo đảm tại cơ quan có thẩm quyền được hoàn trả cho người bị thiệt hại hoặc thân nhân của họ; trường hợp khoản tiền đó là khoản vay có lãi thì phải hoàn trả cả khoản lãi hợp pháp; trường hợp khoản tiền đó không phải là khoản vay có lãi thì phải hoàn trả cho người bị thiệt hại hoặc thân nhân của họ cả khoản lãi theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm giải quyết bồi thường.
2. Thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút
2.1. Các trường hợp thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút
- Trường hợp xác định được thu nhập của người bị thiệt hại;
- Trường hợp cá nhân có thu nhập thường xuyên nhưng không ổn định;
- Trường hợp cá nhân có thu nhập không ổn định và không có cơ sở để xác định cụ thể;
- Trường hợp cá nhân có thu nhập có tính chất thời vụ.
2.2. Căn cứ xác định thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút
- Cá nhân, tổ chức có thu nhập và các thu nhập này có thể xác định được thì được bồi thường theo thu nhập thực tế bị mất.
Ý kiến bạn đọc