Multimedia Đọc Báo in

Vua Minh Mạng và những việc làm của vương triều Nguyễn ở Hoàng Sa

08:48, 15/09/2012

Nhận thức được rằng quần đảo Hoàng Sa là một phần lãnh thổ không thể tách rời, trong thời kỳ trị vì, vua Minh Mạng (vị vua thứ 2 của triều Nguyễn) và vương triều đã có những việc làm cụ thể để khẳng định chủ quyền đối với quần đảo này.

Sách
Sách "Đại Nam thực lục chính biên" phản ánh việc vua Minh Mạng cho giúp đỡ tàu phương Tây bị nạn mắc cạn ở Hoàng Sa năm 1836.

Sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ”, quyển 104, năm Minh Mạng thứ 14 (1833) chép: “Vua bảo bộ Công rằng: “Trong hải phận Quảng Ngãi, có một dải Hoàng Sa, xa trông trời nước một màu, không phân biệt được nông hay sâu. Gần đây, thuyền buôn thường bị nạn. Nay nên dự bị thuyền mành, đến sang năm sẽ phái người tới đó dựng miếu, lập bia và trồng cây cối. Ngày sau cây cối to lớn xanh tốt, người dễ nhận biết, ngõ hầu tránh khỏi được nạn mắc cạn. Đó cũng là việc lợi muôn đời”. Đó là những việc làm rất thiết thực thể hiện được tầm nhìn xa của vương triều Nguyễn nói chung và vua Minh Mạng nói riêng trong việc khẳng định chủ quyền của nhà Nguyễn với quần đảo Hoàng Sa. Việc trồng cây không những bảo vệ được thần dân của triều Nguyễn tránh được những rủi do trong những chuyến ra khơi khai thác sản vật trên biển mà còn giúp tàu thuyền các nước qua lại nhận biết được quần đảo này có chủ quyền thông qua những việc làm và dấu hiệu cụ thể của vương triều đang hiện diện. Không những vậy, vua Minh Mạng đã cho xây dựng miếu thờ tại Hoàng Sa để ngư dân của triều Nguyễn khi đến đây vừa nhận biết được đây là lãnh thổ của vương triều, vừa để thờ thủy thần giúp đỡ trong những chuyến ra khơi nhằm đem lại những điều may mắn. 

 

Sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ”, quyển 154, năm Minh Mạng thứ 16 (1835) chép: “Hoàng Sa ở hải phận Quảng Ngãi có một chỗ nổi cồn trắng, cây cối xanh um, giữa cồn cát có cái giếng, phía tây nam có miếu cổ, có tấm bài khắc 4 chữ “Vạn lý ba bình” (tức muôn dặm sóng êm). Cồn Bạch Sa có chu vi 1.070 trượng, tên cũ là núi Phật Tự, bờ đông, tây, nam đều đá san hô thoai thoải uốn quanh mặt nước. Phía bắc, giáp với cồn toàn đá san hô, sừng sững nổi lên, chu vi 340 trượng, cao 1 trượng 3 thước, ngang với cồn cát gọi là Bàn Than thạch. Năm ngoái (tức năm 1834), vua toan dựng miếu lập bia chỗ ấy, bỗng vì sóng gió không làm được. Đến đây, mới sai Cai đội Thủy quân là Phạm Văn Nguyên đem lính thợ Giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định chuyên chở vật liệu đến dựng miếu (cách tòa miếu cổ 7 trượng). Bên tả miếu dựng bia đá; phía trước miếu xây bình phong. Mười ngày làm xong rồi về”.

Bên cạnh việc xây dựng các công trình trên quần đảo Hoàng Sa, triều Nguyễn còn cho cứu giúp tàu thuyền của các nước khác bị nạn tại quần đảo này. Trong thời kỳ vương triều Nguyễn trị vì đất nước, có nhiều tàu thuyền của các nước qua lại giao thương trong khu vực quần đảo Hoàng Sa bị nạn mắc cạn tại đây được sự giúp đỡ đã vượt qua khó khăn trở về với chính quốc. Sách “Đại Nam thực lục đệ chính biên nhị kỷ", quyển 176, năm Minh Mạng thứ 17 (1836) chép: “Mùa đông, tháng 12, thuyền buôn Anh Cát Lợi (tức nước Anh) đi qua Hoàng Sa mắc cạn, bị vỡ và đắm, hơn 90 người đi thuyền sam bản đến bờ biển Bình Định. Vua được tin, dụ tỉnh thần lựa nơi cho họ trú ngụ, hậu cấp cho tiền và gạo. Lại phái thị vệ thông ngôn đến dịch lời thăm hỏi, tuyên chỉ ban cấp. Bọn họ đều quỳ dài, khấu đầu không thôi... Vua sai thưởng cho thuyền trưởng và đầu mục, mỗi người 1 áo đoạn vũ hàng màu, 1 quần vải tây và 1 chăn vải, các người tùy tùng mỗi người 1 bộ áo quần bằng vải màu. Sai Nguyễn Tri Phương và Vũ Văn Giải đưa họ sang bến tàu Hạ Châu, cho về nước”.

Những việc liên quan đến Hoàng Sa không phải là việc riêng của cá nhân hay bộ nào mà đó là việc chung của toàn bộ vương triều. Trong thời kỳ Minh Mạng trị vì, những vấn đề liên quan đến Hoàng Sa đã nhiều lần được đưa ra bàn bạc trong những buổi thiết đại triều. Sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ”, quyển 165 phản ánh trong một buổi đại thiết triều vào tháng giêng năm 1836 như sau: “Bộ Công tâu nói: “Cương giới mặt biển nước ta có xứ Hoàng Sa rất là hiểm yếu. Trước kia, đã phái vẽ bản đồ mà hình thế nó xa rộng, mới chỉ được 1 nơi, cũng chưa rõ ràng. Hằng năm, nên phái người đi dò xét cho khắp để thuộc đường biển. Xin từ năm nay trở về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng giêng, chọn phái biền binh thủy quân và vệ Giám thành đáp 1 chiếc thuyền ô, nhằm thượng tuần tháng hai thì đến Quảng Ngãi, yêu cầu 2 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định thuê 4 chiếc thuyền của dân, hướng dẫn ra đúng xứ Hoàng Sa. Không cứ là đảo nào, hòn nào, bãi cát nào, khi thuyền đi đến, cũng xét xem xứ ấy chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, chu vi và nước biển bốn bên xung quanh nông hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thế hiểm trở, bình dị thế nào, phải tường tất đo đạc, vẽ thành bản đồ. Lại, xét ngày khởi hành, từ cửa biển nào ra khơi, nhằm phương hướng nào đi đến xứ ấy, căn cứ vào thuyền đi, tính ước được bao nhiêu dặm. Lại từ xứ ấy trông vào bờ bến, đối thẳng vào là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, đối chênh chếch là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, cách bờ biển chừng bao nhiêu dặm. Nhất nhất nói rõ, đem về, dâng trình”. Vua y lời tâu. Sai Suất đội Thủy quân Phạm Hữu Nhật đem binh thuyền đi. Chuẩn cho mang theo 10 cái bài gỗ, đến nơi đó dựng làm dấu ghi, mỗi bài gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, dày 1 tấc, mặt bài khắc những chữ “Minh Mệnh thứ 17 (1836), năm Bính Thân, Thủy quân Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh đi Hoàng Sa trông nom đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ”.

Từ những việc làm như trồng cây, lập miếu thờ hay cho cứu vớt tàu phương Tây bị mắc cạn ở Hoàng Sa, đo đạc... đã cho thấy vương triều Nguyễn rất coi trọng việc xác lập chủ quyền ở quần đảo này. Đáng lưu ý là trong các sách chính sử của triều Nguyễn chưa hề phản ánh việc các nước khác tranh chấp chủ quyền với triều Nguyễn trên quần đảo Hoàng Sa.

Lê Khắc Niên


Ý kiến bạn đọc


(E-magazine) Kiến tạo kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Đắk Lắk không chỉ nằm trong khu vực có hệ sinh thái tự nhiên phong phú, đa dạng phù hợp cho phát triển nông nghiệp, mà còn là địa phương có đến 49/53 dân tộc thiểu số cùng sinh sống. Đây là lợi thế cạnh tranh rất lớn cho tỉnh trong xây dựng và phát triển Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), tạo dựng nền nông nghiệp giàu bản sắc, kiến tạo kinh tế vùng nông thôn vững mạnh, tạo cú hích nâng tầm giá trị cho nông sản địa phương vươn ra thị trường trong và ngoài nước.