Thành Đồng Hới - dấu xưa hào hùng
Thành phố Đồng Hới (tỉnh Quảng Bình) là mảnh đất có địa thế quan trọng trên con đường thiên lý từ Bắc vào Nam mà thành cổ Đồng Hới, di tích lịch sử quân sự được xây dựng vào thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh nằm giữa lòng thành phố chính là dấu xưa vừa vững chãi vừa oai hùng.
Năm Gia Long thứ 10 (1812), thành Đồng Hới được khởi xây trên chính địa thế của lũy Trấn Ninh năm xưa mà Nội tán Đào Duy Từ đã được chúa Nguyễn Phúc Nguyên sai xây dựng năm 1631, làm nên thành trì giới hạn cho hai quân Trịnh – Nguyễn. Với lợi thế giáp cửa biển Nhật Lệ, thành Đồng Hới vừa là nơi kín đáo, an toàn để tiếp nạp quân lương, vừa là tấm lá chắn vững chắc bên bờ biển Đông góp phần ngăn chặn những cuộc tấn công bằng đường thủy của đối phương. Thành cổ Đồng Hới còn là chứng tích chiến tranh in hằn những mất mát đau thương cùng những chiến công hào hùng của quân và dân Quảng Bình trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Sơ khởi, thành Đồng Hới được đắp bằng đất, đến năm 1824 thì vua Minh Mạng đã liên hệ được với một viên sĩ quan người Pháp, cho thiết kế lại và xây dựng thành bằng gạch theo kiểu kiến trúc Vô-băng (Vauban (1633 – 1707), người Pháp, một kỹ sư quân sự lừng danh). Đây là lối kiến trúc thành trì quân sự cổ điển thịnh hành ở phương Tây thế kỷ 17. Khi vua Gia Long lên ngôi và các vị vua triều Nguyễn nối tiếp sau đó, họ đã cho xây dựng từ Nam ra Bắc các tòa thành kiểu này, như thành Sài Gòn, đô thành Huế, thành Hà Nội, Sơn Tây, Cao Bằng, Lạng Sơn…
Cổng tam quan, cầu mái vòm và một đoạn hồ thành Đồng Hới. |
Cấu trúc thành Vô-băng dùng chất liệu gạch kích thước lớn đã được nung già, mạch trát vữa và mặt tường có trổ các lỗ châu mai. Kiểu thành trì đặc dụng này nhất nhất bố trí hệ thống các pháo đài, đường dưới chân phía trong và phía ngoài thành… Chiếu theo đó, thành Đồng Hới là thành lũy quân sự kiên cố có hình múi khế, xoay theo hướng tây nam – đông bắc và tây bắc – đông nam với 4 múi to, 4 múi nhỏ. Thành Đồng Hới xây bằng gạch vồ (một loại gạch to dày, thô nhám, độ bền lâu được bảo đảm bằng lớp vữa cát trộn với mật mía. Gạch vồ cổ xuất hiện trước đó vào thời Lý – Trần, Lê – Mạc ở các tường thành, nền móng…) với phần móng dày 2 m, thành cao 4 m, chu vi thành 1.860 m, bề mặt thành rộng 1,35 m...
Thành Đồng Hới có 3 cửa thành ở phía đông, bắc và nam. Cổng thành được xây theo lối kiến trúc truyền thống của Việt Nam với kiểu cổng tam quan có vọng canh 8 mái vẫn thường xuất hiện ở đình chùa, miếu mạo. Cách chân móng thành khoảng 6 m là hồ thành rộng chừng 28 m, sau lưng cửa cổng thành là chiếc cầu gạch mái vòm bắc qua con hào để thông ra ngoài. Phía bờ hào bên kia thành còn được đắp thêm một con đường phụ rộng 12 m. Năm Nhâm Dần 1842, vua Thiệu Trị trên đường “ngự giá Bắc tuần” qua lũy Trấn Ninh đã lưu ý đến hiện trạng không còn nguyên vẹn của công trình này. Sau đó, ông đã lấy tên Định Bắc Trường thành thay thế cho cái tên cũ và bàn bạc với triều đình rồi nhanh chóng ban kinh phí trùng tu ngôi thành này.
Bên bờ tường thành vẫn khắc ghi dấu xưa oai hùng, những người con Quảng Bình đã xả thân, chấp nhận ngã xuống để bảo vệ đất mẹ, bảo vệ thành trì của cha ông. |
Thành Đồng Hới đã từng là chiến địa của quân và dân Quảng Bình với quân xâm lược. Ngày 19-7-1885, thực dân Pháp chiếm được thành Đồng Hới, ngay lập tức tòa thành này đã trở thành điểm giao tranh ác liệt giữa tướng lính nhà Nguyễn với binh lính Pháp mà đỉnh điểm là ba lần đột nhập vào thành Đồng Hới của nghĩa quân Nguyễn Phạm Tuân vào tháng 1, 6, 8 năm 1886. Thành cổ Đồng Hới đổ nát nghiêm trọng trong thời kỳ Pháp thuộc. Cuối năm 1972, khi Hội nghị Paris bế tắc, Mỹ đã triển khai chiến dịch Linebacker II nhằm "đưa miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá". Quảng Bình nằm trong vùng chiến cuộc của dã tâm điên cuồng đó, và thành cổ Đồng Hới một lần nữa trở thành chiếc túi bằng gạch vữa hứng chịu hàng vạn tấn bom đạn…
Từ trong những năm tháng gian lao mà anh dũng đó, đôi bờ Nhật Lệ, dưới bóng thành cổ uy nghi đã sản sinh ra những người con ưu tú, những anh hùng cách mạng mà cho đến hôm nay vẫn còn vang dội tiếng tăm ngay giữa đời và trong thơ, nhạc. Đó là mẹ Nguyễn Thị Suốt: “Một tay lái chiếc đò ngang/Bến sông Nhật Lệ quân sang đêm ngày/Sợ chi sóng nước tàu bay/Tây kia ta đã thắng, Mỹ này ta chẳng thua!...” (Mẹ Suốt, thơ Tố Hữu). Hay “Em bé Bảo Ninh” Trương Ngọc Hương: “Em bé Bảo Ninh/Bên bờ Nhật Lệ/Như cánh hoa nhỏ/Nở bên chiến hào/Như chim đầu ngõ/Hót mừng xôn xao...” (Em Bé Bảo Ninh, nhạc Trần Hữu Pháp, thơ Nguyễn Văn Dinh).
Cho đến ngày hòa bình (1975), thành Đồng Hới nhiều đoạn đã bị phá hủy và hai cầu nam, bắc thành bị sập hoàn toàn. Tuy vậy, liên quan đến ngôi thành cổ này, các cấp có thẩm quyền vẫn lưu giữ được những tư liệu gốc là một số hình ảnh đen trắng quý giá. Năm 2012, Dự án phục hồi lại di tích cửa Đông đi liền với chiếc cầu vòm cuốn hướng ra biển Nhật Lệ trên cơ sở những yếu tố gốc được xây dựng. Cùng với khoảng 1.087 m tường thành còn tồn tại tương đối nguyên gốc, thành Đồng Hới là điểm tham quan bổ ích cho du khách muốn khám phá, muốn được một lần đi bộ quanh con đường ven hào thành cổ để nghe tiếng ngàn xưa vọng về…
Nguyễn Tiến Dũng
Ý kiến bạn đọc