Multimedia Đọc Báo in

“Ông sử thi”

01:36, 29/06/2025

“Mắt đen hơn rắn than/ Mặt đỏ như hoa vông/ Miệng tròn như ống tên/ Môi đỏ như trái tơ – neng/ Mũi giống miệng con rắn mây/ Ngón chân, ngón tay như cá bống Krông Ana/ Nó đẹp như đúc bằng khuôn, như đổ bằng ống/ Như dát bằng bạc, như trải bằng vàng/ Xing Chi Ngă đẹp/ Bởi mẹ nó ăn trái knia, cha nó ăn trái hơ – đăng/ Giàng trời cho nó đẹp"...

Trong tiết trời giao mùa, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Ka Sô Liễng (huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên) hứng khởi thể hiện đoạn mô tả vẻ đẹp của Xing Chi Ngă trong sử thi Chi Lơ Kok mà ông tâm đắc. Đã tám mươi mấy mùa rẫy, song Ka Sô Liễng vẫn còn dáng vóc khỏe khoắn và giọng nói trầm hùng – hình mẫu của một già làng Tây Nguyên.

Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Ka Sô Liễng là người đi điền dã, ghi chép, sưu tầm sử thi, song cũng là một nghệ nhân hát kể khan (sử thi). Những nghệ nhân kể sử thi được cộng đồng rất nể trọng. Ông Ka Sô Liễng nhớ lại ấn tượng của mình về những nghệ nhân kể khan: "Ðêm hôm đó, nhà bên (buôn Khăm, xã Krông Pa, huyện Sơn Hòa) có đám cúng rất to, có đánh cồng, đánh chiêng, nhảy múa nhưng khi ông Kpă Y Méo cất tiếng hát sử thi Chi Lo Kok thì hình như có nam châm đã hút mọi người vây quanh, lớp trong, lớp ngoài chung quanh ông”.

Lên rẫy.

Khó ai có thể lý giải hết sức hút ma mị của việc kể sử thi. Có những bộ sử thi chỉ hát trong một ngày, một đêm nhưng cũng có những tác phẩm sử thi nghệ nhân phải trình diễn tận 7 ngày đêm. Khi trong nhà có người kể khan, đàn bà thôi kêu la, trẻ con ngừng khóc, không ai ngủ, không ai nói chuyện, tất cả mọi người đều lắng nghe. Có khi họ đốt một đống lửa nhỏ để sưởi và lấy lửa hút thuốc. Họ ngồi lặng lẽ như gỗ, tựa như đã câm. Có thể nói, nghệ nhân kể khan chính là những pho sử thi sống. Giọng điệu của các ông/bà sử thi đều đều, trầm buồn, có lúc tha thiết, lúc hào hùng, sảng khoái. Ngoài đoạn dẫn chuyện, người kể bắt vào giọng nhân vật. Họ hát kể có sự nhấn nhá, từ tốn, không vội vàng diễn kể hết tác phẩm, đi đến đích cuối cùng của sự kiện và chiến công của những người anh hùng. Họ muốn tạo ra khoảng thời gian ngừng nghỉ giữa các sự kiện để có thể mô tả các phương diện phong tục, nghi lễ, đời sống của cộng đồng. Người nghe kể khan càng thích thú, say mê bởi nội dung câu chuyện thì họ càng có khát vọng, ước mơ vươn tới cuộc sống tốt đẹp, hoàn thiện hơn.

Khi về nghỉ hưu ở Ea Chà Rang (huyện Sơn Hòa), ông Ka Sô Liễng chứng kiến các nghệ nhân dân gian kể sử thi cứ lần lượt về phía bên kia núi. Lo sợ kho tàng văn hóa đồ sộ của dân tộc cũng theo người già mất đi, Ka Sô Liễng lặn lội đi tìm các nghệ nhân để nghe kể lại rồi thu âm và ghi chép. Càng làm công việc này ông càng say mê. Có buôn, ông trở đi trở lại nhiều lần mà vẫn chưa ghi chép xong một bài trường ca. Có khi quay lại thì nghệ nhân đã qua đời. Ông còn lưu giữ nhiều cuốn sổ tay đã ngả vàng với những ghi chép còn chưa đến đoạn kết. Từ năm 1995 đến nay, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Ka Sô Liễng đã có nhiều tác phẩm khảo cứu đạt giải thưởng từ tỉnh đến Trung ương; trong đó có những bản trường ca nổi tiếng sưu tầm được như: Chi Lơ Kok; Trường ca Chi-Liêu; Chi Bri, Chi Brit…

Tiến sĩ Nguyễn Định, nguyên Phó Hiệu trưởng phụ trách Trường Đại học Phú Yên, người có nhiều năm dày công nghiên cứu về sử thi đánh giá vùng đất phía Tây Phú Yên và các tỉnh Tây Nguyên có trữ lượng sử thi tương đối lớn. Trong hơn 10 năm, với tinh thần làm việc say mê, tâm huyết, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Ka Sô Liễng đã công bố đến 6 sử thi: Chi Lơ Kok, Xinh Chi Ôn (tập I), Xinh Chi Ôn (tập II), Hơbia Tulúi Kalipu, Trường ca Chi blơng, Tiếng cồng ông bà Hbia Lơđă… Sử thi ông sưu tầm hầu hết là sử thi anh hùng với đề tài chiến tranh, trong đó, phổ biến và tiêu biểu hơn cả là sử thi “Chi Lơ Kok”.

Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Ka Sô Liễng tâm sự, mong muốn lớn nhất của ông là các cộng đồng dân tộc đọc được sử thi, nhất là lớp trẻ đọc được để thấy được cái hay, cái đẹp của văn hóa dân tộc mình chứa đựng trong đó. Ông cũng chưa nguôi nỗi lo lắng khi hiện nay, do ảnh hưởng của văn hóa hiện đại nên không còn nhiều người có nhu cầu nghe kể sử thi như trước đây. Các nghệ nhân biết hát, kể sử thi đã già yếu, nhiều người đã mang theo “kho báu” về với ông bà tổ tiên mà chưa kịp truyền dạy lại cho thế hệ sau. Đội ngũ trí thức tâm huyết với công việc sưu tầm, nghiên cứu sử thi của các dân tộc cũng đang thiếu hụt nghiêm trọng…

Cao Vĩ Nhánh


Ý kiến bạn đọc