Multimedia Đọc Báo in

Đình Bảng - di sản một danh hương (kỳ 1)

08:44, 13/09/2025

Cuối năm 2024, đình Đình Bảng (phường Đình Bảng, TP. Từ Sơn cũ, nay thuộc phường Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh) được công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt. Đây không chỉ là công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo mà còn gắn liền với những câu chuyện, con người đặc biệt của một vùng đất giàu truyền thống văn hóa - lịch sử.

Kỳ 1:  Sự lạ một ngôi làng

Nước Việt không thiếu những ngôi làng nổi tiếng nhưng hiếm có ngôi làng nào kỳ lạ, độc đáo, vẻ vang, chất chứa quá nhiều điều thú vị như ngôi làng Đình Bảng…

Từ rừng báng, dòng Tiêu Tương…

 “Bao giờ rừng báng hết cây/ Tào Khê hết nước, Lý nay lại về” - câu ca dao lưu truyền về một loài cây xưa ở làng Đình Bảng mà khiến vua Lý Thái Tổ phải xúc động chọn rừng cây này làm nơi cấm địa: cây báng.

Tuy nhiên, cách đây gần 100 năm, loài cây này ở Đình Bảng đã bị đốn hạ khiến hầu hết những người sống từ đó đến gần đây không biết hình thù nó thế nào.

Chúng tôi gặp ông Nguyễn Phú Tuấn (70 tuổi) ở sân đình Đình Bảng. Sau một tuần trà, ông giải thích: “Đúng là làng chúng tôi xưa kia ở cạnh một rừng báng um tùm nên có tên gọi dân gian là làng Báng, còn tên chữ Dịch Báng, rồi thành Đình Bảng cho đến ngày. Về sau vì nhiều lý do nên rừng báng dần biến mất. Mãi đến gần đây mới được trồng lại”.

Người có công trồng lại cây báng vào năm 2012 cũng là một người quê Đình Bảng, đó là Tiến sĩ khoa học, Thiếu tướng Nguyễn Quang Bắc, con của cố Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo (tên khai sinh là Nguyễn Đức Nguyện).

Di tích đình làng Đình Bảng.

Ông Tuấn dẫn tôi ra trước ngay phía trước đình làng chỉ một cây báng. Tôi nhìn ngắm và chạm tay vào thân cây, chợt nhớ điển tích: “Châu về Hợp Phố”.

Dân gian ở đây cũng lưu truyền câu ca: “Đình Bảng có sông Tiêu Tương/ Phát thương, phát Vương, phát Đế”. Nhưng, bây giờ quanh Đình Bảng chỉ còn là những cái ao.

Hỏi ra mới biết đúng là đã có một dòng sông chảy qua làng Đình Bảng và nhiều làng Kinh Bắc nữa. Được biết có dòng Tiêu Tương chảy qua đây mang tiếng hát cổ tích Trương Chi như câu ca: “Ngày xưa có anh Trương Chi/ Người thì thậm xấu, hát thì thậm hay”. Chuyện tình cổ tích đã đi vào thơ ca, nhạc họa, như bài hát da diết và day dứt thân phận “Trương Chi” nổi tiếng của nhạc sĩ Văn Cao. Cổ tích Trương Chi thì thuộc về cả nước nhưng không hiểu vì sao xuất xứ câu chuyện thì cứ được mặc định từ dòng Tiêu Tương xứ Kinh Bắc nổi danh với Quan họ Bắc Ninh tình tứ mà không phải là nơi khác.

Nhưng Tiêu Tương nào phải là sản phẩm đơn thuần của trí tưởng tượng dân gian, nó đã từng hiện hữu rành rành. Theo sách “Đại Nam nhất thống chí”: “Sông Tiêu Tương (cũ) ở địa giới phủ Từ Sơn, phát nguyên từ cái đầm lớn ở xã Phù Lưu, huyện Đông Ngàn, chảy từ phía tây sang phía bắc xã Tiêu Sơn, huyện Yên Phong, chuyển sang địa phận hai huyện Tiên Du và Quế Phong, vào sông Thiên Đức”. Về sau vào thế  kỷ 15, do nhà Hồ khơi sông Đuống để uốn thẳng dòng chảy nên Tiêu Tương mất nguồn nước rồi vùi lấp dần, chỉ còn lại những đoạn sông hay ao.

Tôi lặng nhìn mặt nước mà mơ màng nghĩ đến việc khơi lại dòng Tiêu Tương để tiếng hát Trương Chi lan trên mặt sông vào những đêm trăng sáng…

Cây báng (sau lưng một người dân Đình Bảng), trước sân đình làng.

Đến những câu chuyện ngời sáng tình người

Về Đình Bảng sẽ được nghe không chỉ nhiều huyền thoại ly kỳ mà còn cả những câu chuyện chân thực ngời sáng tình người trong những vận hạn hiểm nguy, khốn quẫn.

Nhà giáo Nguyễn Đức Thìn nhắc lại ký ức dân gian: “Tôi nghe kể, thuở ấy, giặc Minh sang xâm lược nước ta. Chúng tàn bạo vô cùng, đốt phá xóm làng, giết người, cướp của, tổ tiên chúng tôi không chịu nổi phải tìm cách tránh đi nơi khác. Cuối cùng bà con tìm đến làng Đồng Nguyên thuộc phủ Thiên Đức, nay thuộc phía đông bắc Từ Sơn. Bà con ở đây không những cưu mang, cho ăn, cho mặc mà còn hết lòng hết sức che giấu. Giặc tan, dân Đình Bảng quay lại quê hương còn được bà con Đồng Nguyên cho lúa gạo lại thêm cả giống tre về trồng lại cho làng. Ơn ấy lớn vô cùng.

Một thời gian khá lâu sau, làng Đồng Nguyên gặp nạn, cả làng bị hỏa hoạn gần như thiêu rụi, nhà cửa, lúa gạo mất hết, bà con lâm vào cảnh màn trời chiếu đất, ăn ở thiếu thốn, vất vả muôn phần. Khi hay tin dữ, người Đình Bảng không ai bảo ai, trẻ, già, trai, gái đều tức tốc kéo nhau sang giúp làng bạn lương thực, dựng lại nhà, cùng chung tay làm lụng ruộng đồng, nghĩa là coi như việc nhà của mình vậy. Cảm kích trước tình sâu nghĩa nặng, hai làng làm lễ kết Chạ (kết nghĩa anh em) bền chặt cho đến ngày nay”.

Tôi lặng người trước chuyện ăn ở của làng quê với ân nghĩa sâu dày, nhìn ra ngoài trời, cả một vùng quê Kinh Bắc đang vàng tươi trong nắng…

(Còn nữa)

Kỳ 2:  Đền Đô và truyền kỳ Lý Công Uẩn

Phạm Xuân Dũng


Ý kiến bạn đọc