Hiệu quả từ việc xã hội hóa chương trình cải tạo đàn bò bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo
Phát triển chăn nuôi bò là tiềm năng và thế mạnh của tỉnh Đắk Lắk. Tuy nhiên, số lượng bò trên địa bàn tỉnh chủ yếu là bò vàng Việt Nam có tầm vóc nhỏ, khả năng sản xuất thấp, hiệu quả kinh tế không cao. Để ngành chăn nuôi bò của tỉnh phát triển mạnh theo hướng sản xuất thâm canh hàng hóa và xuất khẩu, cần thiết phải cải tiến về chất lượng con giống bằng cách sử dụng bò đực giống hoặc thụ tinh nhân tạo; trong đó, phương pháp thụ tinh nhân tạo có hiệu quả cao và chi phí thấp hơn.
Từ năm 2007 đến nay, Trung tâm Khuyến nông tỉnh đã triển khai thực hiện Chương trình cải tạo đàn bò bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo dưới sự hỗ trợ của Nhà nước về các loại vật tư (bình chứa ni-tơ, tinh đông lạnh, khí ni-tơ hóa lỏng, găng tay, ống gen), nhờ đó, chất lượng đàn bò được tăng lên đáng kể, từ những con bò địa phương có tầm vóc nhỏ được phối với tinh những con bò đực giống tốt bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo đã cho ra đàn bò lai có tốc độ phát triển nhanh, cải tiến về tầm vóc, tăng khả năng sản xuất, đặc biệt xây dựng được đàn bò cái lai làm nền để lai tạo các giống bò chuyên thịt chất lượng cao.
Tuy nhiên, chương trình vẫn có những khó khăn trong quá trình thực hiện do trình độ dân trí không đồng đều, vốn hiểu biết về kỹ thuật chăn nuôi bò sinh sản của bà con nông dân còn hạn chế; địa bàn rộng, giao thông đi lại khó khăn, đàn bò tập trung chủ yếu ở vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã ảnh hưởng đến kết quả thụ tinh nhân tạo và công tác kiểm tra; kho bảo quản vật tư phục vụ chương trình thụ tinh nhân tạo chưa bảo đảm các tiêu chí kỹ thuật. Mặt khác, nguồn kinh phí phục vụ chương trình ngày càng khó khăn chỉ tạm đáp ứng được phần ni-tơ lỏng bảo quản tinh, không có kinh phí để mua tinh, tuyên truyền nhân rộng, đào tạo thêm dẫn tinh viên mới và tập huấn kỹ thuật cho bà con. Trước những khó khăn đó, từ giữa năm 2013, Trung tâm Khuyến nông tỉnh đã đề ra giải pháp tiến hành xã hội hóa Chương trình cải tạo đàn bò bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo thu hút sự tham gia của người chăn nuôi, đội ngũ dẫn tinh viên và chính quyền địa phương, giải quyết những khó khăn về nguồn vốn để duy trì chương trình và phục vụ nhu cầu thiết thực của bà con chăn nuôi.
Qua 2 năm thực hiện xã hội hóa, Chương trình cải tạo đàn bò vẫn phát triển tốt cả về chất lượng và số lượng: đã có 12.556 con bò được phối bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo, tỷ lệ bê lai chuyên thịt chất lượng cao tăng từ 20% lên 30%, số bê lai sinh ra là 7.946 con có ngoại hình đẹp, tỷ lệ nuôi sống trên 95%, cùng tháng tuổi bê lai tăng trọng gấp 1,5 lần so với bê địa phương, thu nhập tăng thêm khoảng 30 tỷ đồng/năm cho người chăn nuôi bò trên toàn tỉnh. Từ khi thực hiện xã hội hóa, một số địa phương đã quan tâm hỗ trợ một phần kinh phí cho người chăn nuôi bò tham gia chương trình. Đặc biệt, người chăn nuôi bò đã nâng cao nhận thức, đồng thuận tham gia đối ứng kinh phí mua vật tư (tinh đông lạnh, găng tay, ống gen), và vận động, tuyên truyền lẫn nhau để nâng cao kiến thức chăn nuôi. Từ đó đã xuất hiện nhiều gia trại chăn nuôi vỗ béo bò thịt chất lượng cao mang lại hiệu quả lớn cho người chăn nuôi, tạo tiền đề để hình thành làng nghề chăn nuôi bò thịt.
Có thể nói, công tác xã hội hóa Chương trình cải tạo đàn bò bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo đã huy động sự tham gia tổng lực của cả hệ thống khuyến nông, chính quyền địa phương và người chăn nuôi. Thực tế này đưa ra định hướng những năm tiếp theo cần tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa đổi mới công tác khuyến nông trong tình hình mới gắn với chủ trương tái cơ cấu ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
Cao Phúc
Ý kiến bạn đọc