Multimedia Đọc Báo in

Hình tượng người anh hùng liệt sỹ trong thơ ca kháng chiến

07:32, 26/07/2015

Thơ ca viết về chiến tranh luôn dành một vị trí trang trọng để ngợi ca hình tượng người anh hùng liệt sỹ. Họ là những người xông pha nơi chiến trường ác liệt, đối mặt với kẻ thù nơi tuyến đầu để giành độc lập, tự do cho đất nước.

Trong hoàn cảnh chiến đấu dưới làn mưa bom bão đạn của kẻ thù, không ít những người lính đã hy sinh anh dũng, nằm lại nơi chiến trường. Hình ảnh ấy đã tạc vào dáng hình đất nước và trở thành bức tượng đài bất hủ trong thơ ca kháng chiến.

Viết về chiến tranh, nơi bom đạn ác liệt, các nhà thơ của văn học Việt Nam giai đoạn 1954-1975 và giai đoạn sau 1975 không hề né tránh những đau thương, mất mát và đặc biệt là sự hy sinh của những người lính. Mỗi một bài thơ, một trường ca như một thước phim gieo vào lòng người đọc hình tượng người anh hùng liệt sỹ, những người mang trong mình tình yêu quê hương, mang trong trái tim mình bầu nhiệt huyết sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc thân yêu.

Đất nước đau thương, những chàng trai, cô gái tuổi đôi mươi không hề tiếc tuổi thanh xuân, sẵn sàng đi vào nơi nguy hiểm để bảo vệ từng tấc đất, ngọn cỏ quê hương. Những người lính tự nguyện bước vào trận chiến, sẵn sàng dâng hiến tuổi thanh xuân của mình khi đất nước bị xâm lăng: “ngày mai chàng trai thành người lính/đường người lính - đường ra mặt trận/bàn tay người lính - bàn tay cầm súng/trái tim người lính - chọi cùng đạn bom” (Con đường của những vì sao – Nguyễn Trọng Tạo). Khi đất nước có chiến tranh, những chàng trai, cô gái nơi quê nghèo trở thành người chiến sĩ, con đường trước mặt họ là con đường chinh chiến dài lâu và gian khổ. Gia tài lớn nhất để họ tiến về phía trước đó chính là trái tim. Trái tim của tinh thần yêu nước, trái tim của lòng dũng cảm và sự tự nguyện hiến dâng cho Tổ quốc.

Trong hành trình “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, đi đến ngày chiến thắng, không ít những người lính đã nằm lại nơi chiến trường ác liệt. Viết về giây phút ra đi của người lính là những đoạn thơ mang sức căng của cảm xúc, đậm chất hiện thực. Trong phút giây quyết định, khi mà số phận của họ cận kề với cái chết, khi mà đất nước sẽ một còn một mất cũng là lúc mà tâm thế của người lính đẹp hơn bao giờ hết: “Những người lính vững vàng như cột mốc/Những người lính/Đứng/Làm cột mốc/Những cột mốc thiêng liêng/Biết thương nhớ/Biết làm nên sấm sét/Khi quân thù xâm lấn núi sông ta!...” (Tình ca người lính - Nguyễn Trọng Tạo).

Không phủ trên mình hào quang của những chiến bào, không có những khúc cử hành tấu lên, người lính nằm xuống đất mẹ trong tư thế: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ/Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh/Áo bào thay chiếu anh về đất/Sông Mã gầm lên khúc độc hành” (Tây Tiến - Quang Dũng). Dọc chiến trường, nơi rừng thiêng núi thẳm, những ngôi mộ của họ như những cột mốc vững chắc trên con đường ra trận, trở thành những nấm mồ vô danh nơi biên cương. 

Không hề lên gân hay kể lể khi nói về phút giây đau thương nhất, phút giây người lính hy sinh, trở về với đất mẹ, những vần thơ nhẹ nhàng mà thấm sâu vào trái tim người đọc về những người anh hùng. Họ ra đi vì chiến tranh, họ chiến đấu vì Tổ quốc thân yêu và ngã xuống trên hành trình đi đến ngày chiến thắng. Cái chết của họ “nhẹ tựa lông hồng” mà xót xa đau đớn: “Thế hệ chúng con đi như gió thổi/ Quân phục xanh đồng sắc với chân trời/ Chưa kịp yêu một người con gái/ Lúc ngã vào lòng đất vẫn con trai” (Trần Mạnh Hảo - Đất nước hình tia chớp). Nhiều người lính ngã xuống khi tuổi đời còn xanh: “Họ trẻ lắm những người nằm dưới đó/áo binh nhì xanh suốt tuổi đôi mươi” (Sông Mê Công - Anh Ngọc).

Những người chiến sĩ - những cô thanh niên xung phong đã hy sinh anh dũng. Để rồi, tiếng gọi đồng đội thiết tha, trìu mến vẫn vang lên trên mặt đất nham nhở hố bom: " -  Mười đồng đội yêu thương/mười đồng đội yêu thương nằm lại với con đường!/-La không khóc mà đầm đìa nước mắt/ơi Hợi, ơi Nho, ơi Hà, Xanh, Cúc...” (Con đường của những vì sao - Nguyễn Trọng Tạo).

Những người lính đã nhận thức được cái chết chờ đợi ngay trước mặt, nếu yếu lòng sẽ chẳng thể vượt qua. Họ thanh thản ra đi, họ coi cái chết như một điều định sẵn vì con đường phía trước: “Con trai vừa lớn lên, chưa biết yêu đã biết cầm súng đứng vào đội ngũ…/Đường đến với Tổ quốc là đường đi qua cái chết” (Lê Lâm), Các anh nguyện: “Nằm khuất nơi đâu ven rừng đá lạnh/Trọn đời làm chiến sĩ vô danh” (Bài ca chim Chơrao – Thu Bồn).

Sự hy sinh của những người lính là khúc tráng ca bất tử về những con người tình nguyện xả thân vì Tổ quốc. Đó là sự hóa thân kỳ diệu họ vào lòng đất Mẹ và sự bất tử những con người với non sông: "Tên anh đã thành tên Đất Nước/ Ôi anh giải phóng quân/ Từ dáng đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất/ Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân" (Dáng đứng Việt Nam - Lê Anh Xuân). Hành trình đi đến chiến thắng của dân tộc đầy những hy sinh mất mát khi mà mỗi tấc đất đều thấm máu anh hùng. Để rồi, những dòng sông vẫn ca lên những khúc ca về tuổi hai mươi anh hùng đã làm nên dáng hình xứ sở: “Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ/Đáy sông còn đó bạn tôi nằm/Có tuổi hai mươi thành sóng nước/Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm” (Lời người bên sông - Lê Bá Dương).

Bức tượng đài về người anh hùng liệt sỹ đã trở thành bất tử trong trái tim mỗi người dân Việt Nam. Mỗi tấc đất quê hương, mỗi cánh rừng, mỗi dòng sông đều là sự hóa thân của các anh, các chị. Mỗi vần thơ viết về đề tài chiến tranh là niềm tự hào, biết ơn và sự ngợi ca trân trọng nhất đối với sự hy sinh của những người con bất khuất đã xả thân cho độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam. 

Nguyễn Thế Lượng


Ý kiến bạn đọc


(E-magazine) Kiến tạo kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Đắk Lắk không chỉ nằm trong khu vực có hệ sinh thái tự nhiên phong phú, đa dạng phù hợp cho phát triển nông nghiệp, mà còn là địa phương có đến 49/53 dân tộc thiểu số cùng sinh sống. Đây là lợi thế cạnh tranh rất lớn cho tỉnh trong xây dựng và phát triển Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), tạo dựng nền nông nghiệp giàu bản sắc, kiến tạo kinh tế vùng nông thôn vững mạnh, tạo cú hích nâng tầm giá trị cho nông sản địa phương vươn ra thị trường trong và ngoài nước.