Phòng viêm màng não mủ ở trẻ em
Ở nước ta, viêm màng não mủ do vi khuẩn ở trẻ em trước đây thường xảy ra vào mùa đông - xuân nhưng những năm gần đây, bệnh có thể mắc quanh năm, nhất là dịp hè. Đây là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Nếu không được phát hiện, điều trị đúng, kịp thời thì tỷ lệ tử vong cao, để lại nhiều di chứng nặng nề...
Viêm màng não mủ ở trẻ em thường do lây truyền qua đường hô hấp, đường sinh sản và từ môi trường. Khi trẻ bị bệnh sẽ có hội chứng của nhiễm khuẩn (trẻ lớn thường có sốt cao, đau cơ, đau đầu kéo dài dùng thuốc giảm đau không khỏi; trẻ sơ sinh lại có thể bị hạ thân nhiệt, bú kém hoặc bỏ bú); hội chứng màng não (nôn vọt, bị kích thích, co giật, sợ ánh sáng, li bì hoặc hôn mê... Viêm màng não mủ là bệnh nhiễm khuẩn màng não do vi khuẩn gây nên, bệnh có thể gặp ở cộng đồng, đặc biệt là trẻ em. Khoảng 80% trường hợp mắc bệnh do các vi khuẩn H.influenzae, N. meningitides, S. pneumoniae; khoảng 20% trường hợp do các vi khuẩn gram âm như E.Coli, Klebsiella pneumoniae, Samonella... Sau khi xâm nhập vào cơ thể, vi khuẩn vào máu, rồi đi đến khu trú và phát triển gây mưng mủ ở trong sọ, gây viêm màng não mủ.
Thể bệnh viêm màng não điển hình thường xuất hiện nhanh, với các dấu hiệu: sốt cao 39 - 40oC, bệnh nhi bị kích thích, vật vã, co giật, động kinh cùng với biểu hiện tâm thần do nhiễm khuẩn như đau đầu dữ dội, nôn vọt. Bệnh nhi thường nằm theo tư thế cò súng (nằm nghiêng, đầu gối co lên), có dấu hiệu cứng gáy, dấu hiệu Kernig, dấu hiệu Brudzinski và vạch màng não dương tính, ở trẻ nhỏ thì thấy thóp phồng. Bệnh nhi thường sợ ánh sáng nên hay nằm quay mặt vào tường. Có thể xuất hiện ban xuất huyết ngoài da (đặc điểm của ban xuất huyết do não mô cầu là có kích thước to nhỏ khác nhau, đôi khi có kèm theo hoại tử). Trẻ em và người già có thể bị bệnh viêm màng não do não mô cầu nhưng triệu chứng không điển hình, không sốt, không cứng cổ. Đối với các trường hợp phát hiện bệnh muộn thì điều trị gặp nhiều khó khăn và khi điều trị khỏi có thể để lại nhiều di chứng nặng nề.
Thể viêm màng não - não phù nề kịch phát là thể bệnh nặng với các triệu chứng: sốt cao, kích thích, vật vã, mạch chậm, huyết áp dao động, rối loạn hô hấp, hôn mê... Viêm màng não mủ nặng nếu không phát hiện sớm, xử trí không kịp thời thì nguy cơ tử vong là rất cao. Để giúp chẩn đoán chính xác và kịp thời thì khi nghi ngờ là bệnh viêm màng não mủ bác sĩ phải chọc nước não tủy để xét nghiệm tìm thấy vi khuẩn mới khẳng định bệnh.
Trong thời gian chưa có kết quả xét nghiệm vi khuẩn, bác sĩ thường phải dùng thuốc kháng sinh theo kinh nghiệm. Khi đã có xét nghiệm thấy vi khuẩn thì dùng kháng sinh theo kháng sinh đồ là tốt nhất. Thời gian điều trị đối với não mô cầu: 7 ngày, H.influenzae từ 7 - 10 ngày, phế cầu: 10 - 14 ngày, trực khuẩn ái khí gram âm: 3 tuần. Ngoài ra bác sĩ còn dùng thuốc điều trị triệu chứng như: thuốc hỗ trợ tim mạch, truyền dịch giải độc và điều chỉnh điện giải. Bệnh nhân nặng và có dấu hiệu tăng áp lực nội sọ có thể dùng corticoid trong một vài ngày đầu.
Viêm màng não mủ là một bệnh nặng, vì vậy các bậc phụ huynh cần chú ý phòng bệnh cho con em mình bằng các biện pháp sau đây: nếu trẻ bị viêm đường hô hấp như sổ mũi, hắt hơi, ho, viêm họng... cần cho trẻ đi khám bệnh càng sớm càng tốt. Giữ vệ sinh răng miệng cho trẻ (đối với trẻ lớn cần tập thói quen đánh răng ngày 3 lần, buổi sáng sau khi thức dậy, sau bữa ăn trưa và buổi tối trước khi đi ngủ). Khi trẻ mắc bệnh về đường hô hấp thì cần cho trẻ điều trị dứt điểm theo chỉ định của bác sĩ. Ở các địa phương đang có dịch viêm màng não mủ hoặc có trẻ nghi mắc bệnh viêm màng não mủ cần cách ly bệnh nhi và tránh cho trẻ lành tiếp xúc với trẻ bị bệnh. Phải sử dụng khẩu trang và thường xuyên rửa tay bằng xà phòng sau khi tiếp xúc với bệnh nhân. Cha mẹ cần cho trẻ ăn uống đầy đủ nhất là trong những ngày hè oi bức trẻ thường biếng ăn bỏ bữa sẽ bị suy giảm sức đề kháng dễ mắc bệnh. Phòng bệnh chủ động và hiệu quả nhất vẫn là dùng vắc xin phòng bệnh viêm màng não do não mô cầu.
K.O (tổng hợp)
Ý kiến bạn đọc