KHÓI BẾP CHIỀU XUÂN
Khi cây xoan sau vườn bời bời rụng hoa tím nhạt để lại những chùm quả xanh non và cây rơm trước sân nhà đã vơi quá nửa, chỉ còn như cái nón to úp trên cây cọc tre thì lũ trẻ cũng thôi chơi trò kết hoa, đuổi bắt, trốn tìm. Không phải vì cây xoan đã hết hoa, cây rơm đã rút hết gốc làm chất đốt, không còn chỗ trốn mà vì đó là dấu hiệu của những ngày sắp Tết. Lũ trẻ thơ háo hức tính từng tháng đếm từng ngày mong cho mau tới.
Ngày Tết người ta dùng củi thay rơm làm chất đốt. Củi được đốn hạ từ những cây tạp trong vườn. Nhà nào không có vườn thì mua lại của những người chuyên đi hạ cây chẻ củi trong vùng. Chợ quê thời đó không có mặt hàng chất đốt.
Trên mái bếp ngày Tết không còn những sợi khói lam uốn éo mong manh, là đà phủ đều trên mái bếp như nhau mà đã chấm phá đậm nhạt từng mái rạ khác nhau. Nhà giàu, chuẩn bị từ lâu nên củi khô khói ít. Nhà bình thường thì củi phơi non nắng nên khói hơi nhiều. Nhà nghèo dùng cành nhỏ, nhánh non, gom góp nhặt lượm để dùng trong ngày Tết nên khói phủ dày đậm đặc. Có người vì thói quen lo chất đốt ngày Tết đã ăn sâu vào tâm trí, nên khi lên thành phố sống với con cháu đã thành đạt vẫn không quên thấy cành cây khô rụng nào cũng nhặt về… chất đống để dành.
Minh họa: Trà My |
Bếp to nhất là bếp đình làng. Bếp được kê bằng những tảng đá để có thể chịu được sức nặng cái nồi ba mươi nấu nước to đùng làm thịt lợn cúng Thành hoàng. Những ông đầu rau khổng lồ này thường là chỗ trốn tìm ngày thường của lũ trẻ. Nhưng chỉ những đứa cứng bóng vía mới dám “mạo hiểm” làm vậy. Còn đứa nào cũng sợ Ngài quở không dám bén mảng tới gần.
Bếp nhỏ nhất là bếp trong điếm canh ở cổng làng, được kê bằng 3 cục gạch nửa. Bếp được giữ lửa suốt đêm để hâm ấm nước chè, hút điếu thuốc lào và sưởi ấm cho những tráng đinh thay phiên nhau canh phòng trộm cướp, giữ an ninh cho xóm làng trong những ngày cùng tháng tận.
Trong gian bếp những ngày giáp Tết không còn mùi ngòn ngọt thơm thơm của rơm khô mà đã chuyển mùi ngai ngái cay cay của những khúc củi phơi còn non nắng. Nồi bánh chưng sôi ùng ục tỏa mùi lá dong quyện mùi nếp đậu thơm ngầy ngậy. Nồi cá kho ngọt mùi mía lót, bùi mùi tương đậu, thơm cay mùi những lát riềng cắt mỏng. Mùi hỗn hợp đặc trưng Tết này khiến lũ trẻ bỗng nhớ đến phương thuốc dân gian trị bệnh lở khóe mép “Ai bị lở khóe mép lấy bọt củi bôi vào sẽ khỏi”. Có đứa không bị lở cũng cố tìm cho được chút bọt vàng vàng sủi ra từ những khúc củi ướt bôi trước vào khóe mép để “phòng ngừa”. Có anh còn lo xa tìm thật nhiều loại “biệt dược” này cất vào bao diêm để dự phòng tình huống chẳng may bị lở mép, ăn không được trong ngày Tết. Nhưng chỉ là công cốc. Sau vài giờ “biệt dược” chỉ còn lại vết ố vàng trong bao diêm.
Nói đến bao diêm không thể nào quên được công dụng của nó với tuổi thơ thời rơm rạ. Ngày thường người ta “nuôi lửa” bằng trấu để lấy lửa nấu nướng. Còn hút thuốc thì lửa được “nuôi” bằng con cúi tết bằng rơm. Mỗi lần hút thuốc người ta châm đóm vào con cúi thổi phù phù lấy lửa. Chỉ dịp Tết người ta mới “xài sang” dùng tới diêm. Cho nên trẻ con tìm được cái bao đã hết diêm để chơi thì mừng vô kể. Ngày thường bao diêm làm chuồng nhốt “thú cưng”: dế, ve, xén tóc, bọ gật, cánh cam… Còn ngày Tết bao diêm biến thành “két” đựng tiền xu, tiền chinh mừng tuổi. Lâu lâu lấy “két” ra lúc lắc khoe nhau nhiều ít.
Đã hết rồi một thời rơm rạ. Đã qua rồi một thuở củi than. Bây giờ phố đã gần quê. Quê đà sát phố. Trẻ lên hai đã biết cầm cái điện thoại đồ chơi ngọng nghịu “A dô !”. Người ta không cần củi mà vẫn có bánh chưng. Không cần khúc mía chẻ hai lót dưới đáy nồi, không cần riềng, không cần tương mà vẫn có cá kho “truyền thống”. Không cần ngâm dấm cũng có kiệu chua. Không cần muối dưa cũng có hành ăn kèm thịt mỡ. Mọi thứ đều có đầy ngoài siêu thị.
Nhưng tìm đâu ra khói lam chiều vương trên mái rạ. Tìm đâu ra mùi thân quen ngày giáp Tết trong gian bếp quê xưa. Tìm đâu được bọt củi vàng làm “thuốc” bôi khóe mép. Tìm đâu ra bao diêm làm chuồng nuôi “thú”, làm “két” đựng tiền của tuổi thần tiên thời rơm rạ?
Da diết thương hoài khói bếp chiều Xuân.
Đào Quang Bắc
Ý kiến bạn đọc