Diều Huế - Nét văn hóa đặc sắc
Ở Huế hiện còn lưu giữ rất nhiều thú chơi đặc sắc tao nhã có từ lâu đời trong dân gian, như chơi chim, chơi cá, chơi đá, thả diều…Đặc biệt, chơi diều ở Huế đã được bảo tồn và phát triển thành một thú chơi nghệ thuật mang đậm nét văn hóa đặc trưng riêng của người dân cố đô.
Từ hơn 300 năm trước, thú chơi thả diều đã được các ông hoàng, bà chúa trong cung triều Nguyễn tổ chức thành những lễ hội hoành tráng trong các dịp lễ, tết… Thời vua Đồng Khánh, vua Bảo Đại còn tổ chức các cuộc thi thả diều có giải thưởng hẳn hoi. Huế cũng là nơi có Câu lạc bộ diều đầu tiên trong cả nước với tên gọi “Hội Cầu Phong” được thành lập năm 1973, tập hợp tất cả những người yêu thích thả diều ở cố đô. Từ Câu lạc bộ này, rất nhiều nghệ nhân tài tử đã thành danh với nghệ thuật làm diều, thả diều còn lưu truyền đến nay như: Đoàn Chước, Nguyễn Văn Bân, Ưng Hạng, Trần Văn Đông…Tuy nhiên do điều kiện chiến tranh, Hội Cầu Phong cũng chỉ tồn tại được hai năm. Sau một thời gian dài gián đoạn, năm 1983 những nghệ nhân tâm huyết với diều Huế lại tập hợp nhau lại và ra mắt Câu lạc bộ diều Huế với hơn 20 thành viên. Đến nay, sau gần 20 năm phát triển, Câu lạc bộ diều Huế đã có hàng trăm hội viên, với rất nhiều nghệ nhân tài tử nổi tiếng như Nguyễn Văn Bê, Nguyễn Văn Ry, Nguyễn Đăng Hoàng, Nguyễn Văn Cư,…đã làm rạng danh cho diều Huế qua các liên hoan diều trong nước và quốc tế như: Liên hoan diều Châu Á ở Thái Lan, Liên hoan diều đảo Réunion (châu Phi), Liên hoan diều tại thành phố Sainte Marie, Liên hoan diều quốc tế Canada… Đặc biệt từ năm 1992 đến nay, Câu lạc bộ diều Huế đã 9 lần đại diện cho diều Việt Nam tham dự Liên hoan diều quốc tế được tổ chức 2 năm một lần ở Đieppem (Pháp) nơi được coi là thủ phủ của nghệ thuật thả diều thế giới.
Ai đã có dịp đến Huế, sẽ không lạ gì hình ảnh chiều chiều trên quảng trường Ngọ Môn (phía sau cột cờ Phu Văn Lâu) những cánh diều với đủ kiểu dáng, màu sắc tung lượn trên bầu trời. Nhiều người đã gọi nghệ thuật trình diễn diều Huế là “nghệ thuật múa rối trên không” bởi rất nhiều sự tích dân gian đã được các nghệ nhân diều Huế thể hiện qua những cánh diều như: phượng hoàng đẻ con, đại bàng đánh cắp công chúa, Tấm Cám, Sơn Tinh Thủy Tinh, chèo bẻo đánh quạ, Thạch Sanh chém trăn tinh... Để thực hiện được các màn trình diễn ngoạn mục trên không, những người chơi diều ở Huế ngoài sự đam mê, còn là cả một quá trình kế thừa và sáng tạo không ngừng về nghệ thuật thiết kế và trình diễn diều. Theo Nghệ nhân Nguyễn Văn Cư: Làm ra con diều phải qua lắm khâu phức tạp, điều khiển được diều theo ý muốn lại càng đòi hỏi cao hơn về kỹ thuật và nghệ thuật.
Hiện nay, các loại diều Huế chủ yếu được làm bằng khung tre, dán vải xoa, sơn bằng sơn dầu và bột màu luy-mi-nơ (cho màu bền, đẹp). Mỗi con diều được làm ra đều thực sự là một tác phẩm nghệ thuật, là sự kết hợp của rất nhiều yếu tố như kinh nghiệm, kiến trúc, khí động học, hội họa…qua rất nhiều lần thử nghiệm mới trình diễn trước công chúng. Vất vả gian nan là thế, nhưng bằng sự đam mê và tài hoa của mình, các thế hệ nghệ nhân diều Huế đã làm nên một bộ sưu tập diều khồng lồ với hàng nghìn mẫu mã khác nhau trong hình dáng các loài chim, thú: long, lân, ly, phụng, công, bướm, quạ… kể cả những con vật như mực ống, cá vàng… cũng được bay lên khi hóa thân thành diều. Nhưng có lẽ đặc biệt nhất trong nghệ thuật làm diều Huế là Long diều và Phượng diều, hai tác phẩm được coi kỷ lục làm diều nước ta và thế giới với chiều dài Long diều gần 150m, Phượng diều 240m nặng trên 7 kg được các nghệ nhân diều Huế hoàn thành trong gần 2 tháng. Long diều và Phượng diều đã có mặt trong các liên hoan diều thế giới ở Pháp, Canada trong sự ngạc nhiên và khâm phục của bạn bè quốc tế.
Qua các kỳ Festival Huế được tổ chức hai năm một lần, không có lần nào Festival lại vắng cánh diều. Hoành tráng nhất là Festival 2010, đã có 1.000 con diều được sắp đặt chao lượn trên cầu Trường Tiền làm nên ấn tượng đặc biệt đối với du khách gần xa. Đây cũng chính là 1000 con diều mà các nghệ nhân xứ Huế mang ra Đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội.
Diều Huế đã thực sự trở thành một đặc sản văn hóa của đất Cố đô.
Ý kiến bạn đọc