Ghe chèo – nét đẹp văn hóa vùng sông nước Cửu Long
Có thể nói, bên cạnh dòng sông, chiếc ghe và cây chèo là những thứ chưa bao giờ tách khỏi cuộc sống của người dân vùng sông nước Cửu Long. Thực tế cho thấy, sự hiện hữu của nó giờ đây không đơn thuần là một phương tiện giao thông mà còn là một đặc trưng văn hóa của vùng đất này.
Chiếc ghe và cây chèo đã gắn bó với ông bà ta từ lúc khai hoang mở cõi. Vì với đặc tính là một vùng sông, rạch chằng chịt thì không có phương tiện đi lại nào lý tưởng hơn chiếc ghe. Chính nó là công cụ phục vụ đắc lực cho quá trình tồn tại và chinh phục tự nhiên của những bậc tiền nhân.
Ghe và chèo ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) khá đa dạng về hình dáng và kích cỡ. Tuy nhiên, để có thể chèo được thì ghe phải không quá lớn mà cũng không quá nhỏ. Vì nếu lớn quá mà gặp nước ngược hay chở hàng nhiều thì không chèo nổi. Còn ghe nhỏ quá thì chèo phải khom lưng, ghe lại lắc nên với loại này người ta thường bơi bằng cây dầm – cũng là một dụng cụ bơi ghe nhưng chỉ dài bằng nửa cây chèo.
Ngoài những yếu tố trên, giữa ghe và chèo còn phải tương xứng. Ghe phải thon, vững và chèo không được quá dài hay quá ngắn, như thế mới tạo sự cân bằng, ghe đi êm mà không bị đảo. Khi chèo ghe có thể dùng hai cây hoặc một tùy thích. Riêng ở ĐBSCL, người ta thường chèo hai cây và chỉ chèo bằng tay, ít khi sử dụng một cây và dùng chân để chèo như các vùng khác. Còn việc sử dụng dầm để bơi chỉ dùng khi đoạn đường ngắn hay với mấy người chuyên câu tôm, đặt lờ, thả lưới,…mục đích là để cho khỏi vướng.
Có được ghe và chèo là một lẽ, nhưng việc chèo như thế nào thì đó là cả một nghệ thuật. Vì nếu không biết chèo, ghe sẽ đảo qua đảo lại và đi rất chậm. Những người chèo giỏi là những người biết điều tiết sao cho lực chèo được cân bằng ở hai bên, mái chèo chậm, lướt đều trên mặt sông, đồng thời phải biết chọn luồng nước sao cho không bị cản.
Ghe chèo đã trở thành nét văn hóa đặc trưng của vùng sông nước Cửu Long. Ảnh: T.L |
Khi nhìn hình ảnh những chiếc ghe chèo trên sông cho ta cảm giác yên bình, con người như giao hòa với thiên nhiên. Vì ngồi trên ghe ta như ở giữa dòng nước mát, được nhìn ngắm cảnh vật hai bên bờ sông vừa mộc mạc, gần gũi nhưng cũng không kém hữu tình. Lúc này, ta cũng có dịp cảm nhận hương vị phù sa, được lắng nghe tiếng cá vẫy, tiếng chim hót và cả tiếng chèo đập nước bên tai. Đặc biệt nhất là những khi chiều xuống, những chiếc ghe chở hàng đi bán xa không về kịp hay những chiếc ghe câu, ghe đăng,… đậu chung lại với nhau. Lúc này, người góp lít rượu, kẻ góp con khô,… vừa lai rai vừa hát vài vọng cổ. Chỉ bình dị thế thôi nhưng thấy đời thanh thản đến lạ lùng.
Không chỉ thiên nhiên hiền hòa mà con người nơi đây cũng vô cùng tốt bụng. Người miền Tây có một tính cách rất hay là trong lúc chèo ghe, ai muốn quá giang họ sẽ sẵn sàng giúp đỡ. Đối với họ, việc từ chối cho người khác đi nhờ là một hành vi xấu, một người ích kỷ. Do đó, bất kể lạ hay quen, nước chảy ngược hay xuôi, trong khả năng có thể là họ sẵn sàng “đưa khách” sang sông.
Không những vậy, khi ngồi trên ghe, họ có thể kể đủ thứ chuyện trên đời, từ chuyện nhà, chuyện đồng áng, vườn tược, chuyện hàng xóm, chuyện bên Tây, bên Tàu,… Có khi đã đến chợ hay đã về đến nhà mà vẫn không hay, đôi lúc còn thấy tiếc vì quãng đường quá ngắn. Nhưng cũng nhờ những lúc như vậy mà biết bao trai gái đã nên duyên, biết bao người kết tình bằng hữu, sui gia, biết bao tình cảm xóm giềng được chăm bồi, vun đắp.
Ghe chèo không những vẫn đóng một vai trò quan trọng trong đời sống vùng sông nước mà còn góp phần tạo nên một nét độc đáo trong đời sống sinh hoạt của người dân miền Tây Nam Bộ. Nói cách khác, đó là một một trong những đặc trưng văn hóa mà khi nhắc đến ta không thể nhầm lẫn với bất cứ nơi nào trên đất nước Việt Nam.
Ý kiến bạn đọc