Kỷ niệm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930-3-2-2013)
83 mùa Xuân của Đảng
Từ ngày thành lập (3-2-1930) đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng củng cố và lớn mạnh. 83 mùa Xuân của Đảng gắn bó bền chặt với từng bước chuyển mình của đất nước, dân tộc bằng những đường hướng, quyết sách lãnh đạo tài tình, sáng suốt, thống nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh.
Hội nghị thành lập Đảng
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản ở Việt Nam (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ ngày 3 đến 7-2-1930 tại Cửu Long, gần Hương Cảng (Trung Quốc) mang tầm vóc lịch sử của đại hội thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng. Ngày 3-2-1930 trở thành ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đây là một mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm, xác định con đường cách mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Đại hội I: Củng cố hệ thống tổ chức của Đảng
Ngay sau khi thành lập, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta thực hiện cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh. Từ ngày 28 đến 31-3-1935, Đại hội Đại biểu lần thứ nhất của Đảng đã họp tại một địa điểm ở phố Quan Công, Ma Cao (Trung Quốc) nhằm xác định đường lối cho thời kỳ đấu tranh mới khi Đảng đã phục hồi sau các cuộc “khủng bố trắng” của thực dân Pháp. Đại hội đã bầu đồng chí Lê Hồng Phong làm Tổng bí thư. Ban Chấp hành Trung ương nhất trí cử đồng chí Nguyễn Ái Quốc là đại biểu của Đảng bên cạnh Quốc tế Cộng sản. Tháng 7-1936, đồng chí Hà Huy Tập được cử làm Tổng Bí thư. Tới tháng 3-1938, đồng chí Nguyễn Văn Cừ được cử làm Tổng Bí thư. Tháng 5-1941, đồng chí Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư.
Đại hội Đại biểu lần thứ nhất của Đảng là sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu thắng lợi căn bản của cuộc đấu tranh giữ gìn và khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng từ trung ương đến cơ sở, từ trong nước đến nước ngoài.
Đại hội II: Đại hội kháng chiến
Sau chiến thắng Thu – Đông năm 1947 và Chiến dịch Biên giới năm 1950, thế và lực của nước ta trong kháng chiến chống Pháp phát triển vượt bậc. Để tiếp tục phát triển đường lối kháng chiến kiến quốc, Trung ương Đảng đã quyết định triệu tập Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng. Đại hội họp tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang từ ngày 11 đến 19-2-1951. Đại hội đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình lãnh đạo và trưởng thành của Đảng. Đường lối do đại hội vạch ra đã đáp ứng yêu cầu trước mắt của kháng chiến, yêu cầu lâu dài của cách mạng và thực sự là những đóng góp quý báu vào kho tàng lý luận cách mạng nước ta.
Đại hội III: Xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại thủ đô Hà Nội từ ngày 5 đến 10-9-1960. Trong lời khai mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Đại hội lần này là đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà". Đồng chí Hồ Chí Minh được bầu lại làm Chủ tịch Đảng và đồng chí Lê Duẩn được bầu lại làm Bí thư thứ nhất Ban chấp hành trung ương Đảng. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng có một ý nghĩa rất trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Đường lối cách mạng do đại hội vạch ra là ngọn đèn sáng ngời chiếu rọi con đường của nhân dân ta tiến tới chủ nghĩa xã hội, tiến tới thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Đại hội IV: Đại hội thống nhất tổ quốc, đưa cả nước tiến lên con đường XHCN
Sau đại thắng mùa Xuân 1975, đất nước ta bắt đầu một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên hoà bình thống nhất độc lập và cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV tại thủ đô Hà Nội từ ngày 14 đến ngày 20-12-1976. Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng có ý nghĩa trọng đại, là đại hội toàn thắng của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và mở đầu cho thời kỳ cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Những nội dung cơ bản của đại hội về xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đánh dấu một bước phát triển của Đảng ta trong việc tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn.
Đại hội lần thứ V: Đại hội của sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng họp từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982 tại thủ đô Hà Nội. Đồng chí Lê Duẩn tái cử Tổng Bí thư. Ngày 14-7-1986, Ban Chấp hành trung ương họp phiên đặc biệt. Đồng chí Trường Chinh được bầu giữ chức Tổng Bí thư thay đồng chí Lê Duẩn từ trần ngày 10-7-1986. Đại hội lần thứ V của Đảng là kết quả của một quá trình làm việc nghiêm túc, tập hợp ý kiến của toàn Đảng để đề ra nhiệm vụ, phương hướng… nhằm giải quyết những vấn đề gay gắt nóng bỏng đang đặt ra của cách mạng Việt Nam. Đại hội đánh dấu một bước chuyển biến mới về sự lãnh đạo của Đảng trên con đường đấu tranh “Tất cả vì tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân”.
Đại hội VI: Đại hội kế thừa và quyết tâm đổi mới, đoàn kết tiến lên
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp tại Hà Nội từ ngày 15 đến 18-12-1986. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư. Các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ được giao trách nhiệm là Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng. Đại hội đã hoạch định đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt để, mở ra thời kỳ mới của sự nghiệp cách mạng nước ta trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội VII: Đại hội của trí tuệ, đổi mới, dân chủ, kỷ cương, đoàn kết
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam được tiến hành trong bối cảnh quốc tế và trong nước đang có những diễn biến phức tạp. Đại hội họp tại thủ đô Hà Nội từ ngày 24 đến 27-6-1991. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư. Các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công là cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Thành công của đại hội đánh dấu bước trưởng thành mới của Đảng, cột mốc mới trong tiến trình cách mạng Việt Nam, khẳng định đổi mới toàn diện, đồng bộ, có nguyên tắc và có bước đi vững chắc là quá trình không thể đảo ngược.
Đại hội VIII: Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH-HĐH vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh
Đến năm 1996, công cuộc đổi mới đã tiến hành được 10 năm và đạt được nhiều thành tựu quan trọng về mọi mặt, tạo được nhiều tiền đề cần thiết cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong hoàn cảnh đó, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra từ ngày 28-6 đến 1-7-1996, tại Hà Nội. Đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư. Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) đã bầu đồng chí Lê Khả Phiêu giữ chức vụ Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đại hội lần thứ VIII có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước ta sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội IX: Trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới
Đại hội diễn ra trong bối cảnh loài người đã kết thúc thế kỷ XX và bước sang thế kỷ XXI, dân tộc ta đứng trước những thời cơ lớn đan xen với nhiều thách thức lớn. Đại hội họp tại Hà Nội từ ngày 19 đến 22-4-2001. Đại hội IX đã thông qua chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 và phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005. Đại hội cũng thông qua toàn văn Điều lệ Đảng bổ sung, sửa đổi. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư.
Đại hội IX của Đảng có ý nghĩa trọng đại mở đường cho đất nước ta nắm lấy cơ hội, vượt qua thách thức tiến vào thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới, thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đại hội X: Trí tuệ, đổi mới, đoàn kết và phát triển bền vững
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra trong thời điểm lịch sử có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Sự nghiệp đổi mới trên đất nước ta đã trải qua 20 năm. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vừa kết thúc 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, cũng là 5 năm đầu tiên của thế kỷ XXI. Đại hội họp từ ngày 18 đến ngày 25-4-2006 tại thủ đô Hà Nội. Đồng chí Nông Đức Mạnh tái cử Tổng Bí thư. Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 chỉ rõ mục tiêu giai đoạn 2006-2010 là đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần của nhân dân. Tạo được nền tảng để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức, đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Đại hội XI: Khơi dậy sức mạnh dân tộc và thời đại
Mười năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 là giai đoạn đất nước đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhất là tác động tiêu cực của hai cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực và toàn cầu, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Đại hội diễn ra từ ngày 12-1 đến ngày 19-1-2011. Đại hội có vai trò và sứ mệnh lịch sử hết sức to lớn bởi: Đại hội mở đầu thập niên thứ hai của thế kỷ 21. Tại Đại hội này, Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở nhìn lại 80 năm ra đời, chiến đấu, trưởng thành, lãnh đạo cách mạng, căn cứ tình hình trong nước và quốc tế đã bổ sung và phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương nhiệm kỳ khoá X trình Đại hội XI; thảo luận, xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 – 2020; một số vấn đề cần bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng cùng các nội dung quan trọng khác.
Ý kiến bạn đọc