Multimedia Đọc Báo in

KỶ NIỆM 60 NĂM CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ (7-5-1954 – 7-5-2014)

Mở chiến dịch Điện Biên Phủ - Quyết định lịch sử của Đảng ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược

10:52, 07/04/2014

Quyết định lịch sử mở chiến dịch Điện Biên Phủ là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố như sự lãnh đạo chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo, quyết đoán, kịp thời của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh; sự đồng tâm nhất trí, đoàn kết một lòng, dồn toàn lực cho chiến thắng ở giai đoạn cuối cuộc kháng chiến.

Kỳ I: Con đường đến  Điện Biên Phủ

Đến Thu-Đông năm 1953, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ đã trải qua 8 năm. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, đưa cuộc kháng chiến từ thế phòng ngự chuyển sang thế giằng co và phát triển sang thế tiến công, phản công.

Chiến dịch tiến công Biên giới Thu Đông 1950 giành thắng lợi to lớn đã khẳng định quyền chủ động chiến lược của ta trên chiến trường chính Bắc Bộ. Điều này có nghĩa là bộ đội chủ lực của ta có thể mở các chiến dịch tiến công quân Pháp và tay sai ở hướng chiến trường do ta lựa chọn, chủ động xác định quy mô lực lượng tham gia chiến dịch, chủ động về thời gian mở màn và kết thúc chiến dịch. Đây là sự phát triển vượt bậc của cuộc kháng chiến về mặt thế trận trong khi so sánh lực lượng về quân sự, vũ khí, trang bị… ta vẫn còn thua kém địch khá nhiều. Bằng chiến thắng trong chiến dịch tiến công địch ở Hòa Bình Đông Xuân 1951-1952; ở Tây Bắc Thu Đông 1952, đặc biệt là chiến thắng trong chiến dịch vận động tiến công, truy kích địch ở Thượng Lào (phối hợp với lực lượng vũ trang yêu nước Lào) tháng 4-1953, quyền chủ động chiến lược của ta đã mở rộng ra toàn miền Bắc Đông Dương.

Trong khi đó, thực dân Pháp ngày càng lún sâu vào thế phòng ngự, bị động đối phó với các cuộc tiến công của chủ lực ta. Tình thế cuộc chiến tranh ngày càng bi đát và bế tắc, khiến Chính phủ Pháp phải tính đến việc tìm cách kết thúc, thoát ra khỏi cuộc chiến ở Đông Dương sao cho đỡ mất mặt nhất. Tướng Henri Navarre đã được Chính phủ Pháp cử sang làm Tổng chỉ huy đạo quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương (thay tướng Salan bị triệu hồi) để gánh vác “sứ mệnh” nặng nề đó. Henri Navarre đã nhanh chóng tìm hiểu tình hình và đề ra một kế hoạch tổng thể cả về chính trị và quân sự nhằm giành lại quyền chủ động chiến trường, đánh một đòn quyết định trước khi bước vào đàm phán trên thế mạnh với ta để kết thúc chiến tranh.

Kế hoạch của Navarre về quân sự dự kiến chia làm hai bước, bước một từ Thu Đông 1953 đến Xuân Hè 1954 tránh giao chiến với chủ lực ta, tập trung xây dựng khối cơ động chiến lược ở miền Bắc, tiến hành bình định miền Nam và các tỉnh tự do ở Liên khu 5. Bước thứ hai, từ mùa Thu 1954, sau khi đã bình định Nam Bộ, Trung Bộ và đã xây dựng được khối cơ động chiến lược, sẽ tổ chức giao chiến lớn với chủ lực ta ở miền Bắc nhằm tạo nên một cục diện quân sự có lợi cho Pháp khi xúc tiến một giải pháp chính trị kết thúc chiến tranh.

Bộ đội cùng đồng bào các dân tộc Tây Bắc xẻ núi, làm đường vào trận địa.                                                                             (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Bộ đội cùng đồng bào các dân tộc Tây Bắc xẻ núi, làm đường vào trận địa. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

Vào cuối tháng 8-1953, sau khi nắm được nội dung cơ bản của Kế hoạch Navarre, Tổng Quân ủy đã trình Bộ Chính trị Trung ương Đảng bản Đề án “Tình hình địch-ta ở Bắc Bộ sau khi địch rút khỏi Nà Sản và chủ trương tác chiến của ta trong Thu Đông 1953”. Bản Đề án cho rằng, Bộ Chỉ huy Pháp quyết định rút bỏ tập đoàn cứ điểm Nà Sản (từ ngày 9 đến 12-8-1953) nhằm tập trung lực lượng về đồng bằng Bắc Bộ, tiến tới giành lại chủ động trên chiến trường trọng yếu này. Về lực lượng của ta ở Bắc Bộ, Tổng Quân ủy đánh giá là chưa chiếm ưu thế so với địch nên cũng chưa có khả năng thể hiện được ưu thế binh lực tuyệt đối trên hướng chính trong một chiến dịch ở đồng bằng. Vì thế, muốn tổ chức đánh lớn ở đồng bằng, bộ đội chủ lực cần phải giải quyết về mặt chiến thuật và tư tưởng vì phải tác chiến với quân cơ động của Pháp có phi pháo yểm trợ, phải đánh cả ban ngày và đánh địch cố thủ trong công sự kiên cố… Đây là những khó khăn đối với bộ đội chủ lực, nên Tổng Quân ủy chỉ nêu yêu cầu bộ đội chủ lực dùng những phương thức hoạt động thích hợp để tiêu diệt từng bộ phận nhỏ sinh lực địch, hỗ trợ chiến tranh du kích phát triển. Bên cạnh đó, tăng cường hoạt động ở Thượng Lào và ở các chiến trường khác để phân tán khối cơ động chiến lược của địch đang co cụm ở đồng bằng Bắc Bộ. Các đại đoàn chủ lực như 308, 320 nhận được lệnh bố trí lực lượng sẵn sàng đề phòng địch đánh lên Việt Bắc, đánh ra Chi Nê, Nho Quan, đồng thời tập trung huấn luyện bộ đội đánh công kiên và đánh vận động, đánh ban ngày trong điều kiện quân địch có máy bay, pháo binh yểm trợ.

Để triển khai Kế hoạch Navarre, Bộ Chỉ huy Pháp ở Đông Dương đề nghị Chính phủ Pháp tăng viện hai sư đoàn (rút từ Khối Bắc Đại Tây Dương - NATO). Chính phủ Mỹ đã dành khoản viện trợ đặc biệt 385 triệu đô la cho đạo quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Đến giữa tháng 9-1953, số quân cơ động của Pháp ở đồng bằng Bắc Bộ đã lên tới tám binh đoàn bộ binh và dù; bảy binh đoàn xe thiết giáp, hai binh đoàn xe lội nước. Bộ Chỉ huy Pháp chủ động mở hàng loạt cuộc hành quân ở đồng bằng Bắc Bộ như Clốt, Cá Măng, trù tính đánh ra Tây Nam Ninh Bình, vùng tự do Liên khu 5… Tổng chỉ huy Navarre yêu cầu cấp dưới phải hành động nhanh hơn đối phương, phải điều khiển chiến trận… nắm quyền chủ động bằng cách phóng ra những cuộc hành quân chớp nhoáng, đúng lúc, cho đến khi Việt Minh thật sự cảm thấy là họ bị săn đuổi.

Trước kế hoạch và hành động của địch, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị cho Tổng Quân ủy, Bộ Tổng tư lệnh nghiên cứu xác định phương án tác chiến mới thích hợp, tập trung vào việc phân tán lực lượng cơ động của địch. Bộ Tổng tham mưu đã xây dựng phương án tác chiến, nội dung chính là đẩy mạnh chiến tranh du kích trên các chiến trường để giam chân, tiêu hao địch; mở một số chiến dịch tiến công trên các địa bàn chiến lược hiểm yếu, nhưng địch sơ hở, buộc chúng phải điều lực lượng cơ động đến đối phó. Nếu địch tiến công ra vùng tự do, tập trung chủ lực đánh tiêu diệt lớn.

Trên cơ sở của phương án tác chiến mới, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp mở rộng tại núi Hồng, Định Hóa, Thái Nguyên, vào cuối tháng 9, đầu tháng 10-1953, bàn về kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thay mặt Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh trình bày chủ trương đưa một số đơn vị chủ lực lên hoạt động ở Tây Bắc, phối hợp với bộ đội Pathét Lào mở các đợt hoạt động, tiến công tại những nơi địch sơ hở để buộc chúng phải phân tán lực lượng đối phó. Đồng thời, đẩy mạnh chiến tranh du kích trên các chiến trường, đặc biệt là ở đồng bằng Bắc Bộ. Phương châm tác chiến được Bộ Chính trị xác định là “Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt”. Chủ trương tác chiến trong Đông Xuân 1953-1954 là sử dụng một bộ phận chủ lực mở những cuộc tiến công vào những hướng địch sơ hở, đồng thời tranh thủ cơ hội tiêu diệt địch trong vận động ở những hướng địch có thể đánh sâu vào vùng tự do của ta; trong lúc đó, đẩy mạnh chiến tranh du kích ở vùng địch tạm kiểm soát. Cụ thể, trên chiến trường miền Bắc, sử dụng một bộ phận chủ lực mở cuộc tiến công đánh lên hướng Tây Bắc, tiêu diệt quân địch còn chiếm đóng Lai Châu, giải phóng hoàn toàn Tây Bắc. Đề nghị phối hợp với Pathét Lào mở cuộc tiến công ở Trung Lào, tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng vùng giải phóng. Vì hành động của quân địch chưa rõ rệt nên trước mắt bố trí bộ phận quan trọng chủ lực tại một địa điểm cơ động, giấu kín lực lượng, sẵn sàng hành động. Nếu địch tăng cường lực lượng cho Tây Bắc, sẽ điều chủ lực lên để tiêu diệt…

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì hội nghị, kết luận về hướng hoạt động, lấy Tây Bắc làm hướng chính, các hướng khác là hướng phối hợp. Hướng chính hiện nay không thay đổi, nhưng trong hoạt động thì có thể thay đổi. Phép dùng binh là phải thiên biến vạn hóa. Trên cơ sở phương án tác chiến được xác định, Bộ Tổng tham mưu đã xây dựng kế hoạch sử dụng các đơn vị chủ lực và phối hợp tác chiến trên các chiến trường.

Như vậy, đến trung tuần tháng 10-1953, Kế hoạch tác chiến trong Đông Xuân 1953-1954 đã được thông qua và xúc tiến triển khai. Đại đoàn 316 nhận được lệnh tiến công tiêu diệt quân Pháp ở Lai Châu, giải phóng hoàn toàn khu Tây Bắc. Sau khi giải phóng Lai Châu, Trung đoàn 148 sẽ phối hợp với bộ đội Pathét Lào tiến công giải phóng Phongxalỳ. Giữa tháng 11-1953, Đại đoàn 316 hành quân lên Tây Bắc. Tình báo Pháp phát hiện sự chuyển quân này, ngay lập tức báo cáo cho Tổng chỉ huy Navarre. Sự phản ứng tức thời của Bộ Chỉ huy Pháp, cụ thể là của Navarre, đưa quân dù lên chốt chặn ở Điện Biên Phủ, vừa ngăn chủ lực ta tiến lên Lai Châu, đặc biệt là tiến sang Lào, đã tạo nên một bước ngoặt có lợi cho cuộc kháng chiến và gây ra hậu quả tồi tệ cho cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp. Từ đây, Điện Biên Phủ từ chỗ không được nhắc đến trong kế hoạch của Navarre cũng như kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954 của ta, lại nhanh chóng trở thành tâm điểm trong kế hoạch điều hành của cả hai bên.

Kỳ II: Chọn Điện Biên Phủ - Một quyết định lịch sử 

PGS.TS Nguyễn Mạnh Hà

(Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh).


Ý kiến bạn đọc


(E-magazine) Kiến tạo kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Đắk Lắk không chỉ nằm trong khu vực có hệ sinh thái tự nhiên phong phú, đa dạng phù hợp cho phát triển nông nghiệp, mà còn là địa phương có đến 49/53 dân tộc thiểu số cùng sinh sống. Đây là lợi thế cạnh tranh rất lớn cho tỉnh trong xây dựng và phát triển Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), tạo dựng nền nông nghiệp giàu bản sắc, kiến tạo kinh tế vùng nông thôn vững mạnh, tạo cú hích nâng tầm giá trị cho nông sản địa phương vươn ra thị trường trong và ngoài nước.