Multimedia Đọc Báo in

Hà Huy Tập - người chiến sĩ cộng sản hy sinh trọn đời vì nước, vì dân

10:16, 22/04/2016
Tổng Bí thư Hà Huy Tập sinh ngày 24-4-1906, là con thứ 3 trong gia đình nhà nho yêu nước tại làng Kim Nặc, tổng Thổ Ngọa, nay thuộc xã Cẩm Hưng, huyện Cẩm Xuyên (tỉnh Hà Tĩnh). Thân phụ là ông Hà Huy Tương, có đỗ đạt nhưng không ra làm quan mà ở quê dạy học và bốc thuốc giúp người. Thân mẫu là bà Nguyễn Thị Lộc, một nông dân chất phác, thương chồng, tần tảo nuôi con, cả cuộc đời gắn bó với đồng quê.

Lúc đầu, Hà Huy Tập được cha mình dạy học tiếng Hán tại nhà, sau đó đi học và đỗ đầu kỳ thi tốt nghiệp tiểu học ở tổng Thổ Ngọa nhưng do gia cảnh khó khăn nên không được học tiếp. Từ tháng 9-1917, nhờ có người giúp đỡ, Hà Huy Tập được ra tỉnh lỵ Hà Tĩnh học Trường Tiểu học Pháp - Việt. Năm 1919, Hà Huy Tập đỗ thủ khoa kỳ thi chọn học sinh xuất sắc do nhà trường tổ chức, được cấp học bổng, rồi vào học Trường Quốc học Huế. Năm 1923, ông tốt nghiệp Trường Quốc học Huế hạng ưu nhưng vì không có điều kiện học lên nữa nên vào làm giáo viên Trường Tiểu học Pháp - Việt tại Nha Trang (Khánh Hòa). Trong thời gian này, ông đọc nhiều tài liệu, hiểu thêm về tội ác của thực dân Pháp, cuộc sống bần hàn của nhân dân lao động ở Việt Nam và Đông Dương.

Tổng Bí thư Hà Huy Tập
Tổng Bí thư Hà Huy Tập

Tháng 8-1926, Hà Huy Tập chuyển về dạy học tại Trường Cao Xuân Dục ở Vinh, Nghệ An; tích cực hoạt động trong Hội Phục Việt (sau đổi tên thành Hội Hưng Nam), tích cực tuyên truyền tư tưởng chống chuyên chế và chống thực dân Pháp trong học sinh và tầng lớp lao động. Tháng 3-1927, ông vào dạy học tại một trường tiểu học ở Gia Định, sau đó đến Bà Rịa làm công nhân, lập ra một chi bộ, một hội đọc sách báo và tổ chức các lớp học xóa mù cho công nhân.

Cuối tháng 12-1928, Hà Huy Tập cùng với một số đồng chí khác được cử đến Quảng Châu (Trung Quốc) bàn việc hợp nhất Tân Việt Cách mạng Đảng với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Từ tháng 7-1929 đến tháng 4-1932, Hà Huy Tập được cử đi học tại Trường Đại học Phương Đông ở Mátxcơva (Liên Xô cũ). Khoảng tháng 6-1933, ông về Trung Quốc hoạt động cách mạng, tham gia Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương; triển khai công tác chuẩn bị và tổ chức Đại hội lần thứ nhất của Đảng. Từ tháng 7-1936 đến tháng 3-1938, Hà Huy Tập hoạt động cách mạng với cương vị là Tổng Bí thư của Đảng. Từ Hội nghị lần thứ 3 (khóa I) Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 3-1938, ông thôi giữ chức Tổng Bí thư nhưng vẫn tham gia Thường vụ Trung ương. Ngày 1-5-1938, trong khi đang đi công tác, Hà Huy Tập bị địch bắt, sau đưa về giam tại Sài Gòn và Nghệ An. Ngày 28-8-1941, ông bị thực dân Pháp xử bắn và hy sinh anh dũng ở tuổi 35.

Với 35 tuổi đời, trải qua gần 16 năm hoạt động cách mạng, trong đó có gần hai năm giữ cương vị Tổng Bí thư của Đảng (tháng 7-1936 đến tháng 3-1938), với nhiều bí danh và tên gọi khác nhau, Tổng Bí thư Hà Huy Tập đã có nhiều chủ trương, quyết sách cùng với tập thể Ban Chấp hành Trung ương lãnh đạo cách mạng nước ta vượt qua nhiều khó khăn, thử thách.

Tổng Bí thư Hà Huy Tập là người chủ công xây dựng các văn kiện và chủ trì Đại hội Đảng năm 1935. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 7-1936, Hà Huy Tập được phân công về nước tổ chức lại Ban Chấp hành Trung ương và khôi phục tổ chức của Đảng. Ngay sau đó, ông đã sáng suốt quyết định chuyển trụ sở của Đảng từ nước ngoài về xã Bà Điểm, huyện Hóc Môn, tỉnh Gia Định. Quyết định này có ý nghĩa quan trọng, tạo điều kiện trong việc bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp, thống nhất của Đảng từ Trung ương tới cơ sở, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của phong trào cách mạng lúc đó. Tiếp đến, tại Bà Điểm - Hóc Môn - Gia Định, ông liên tục chủ trì ba Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, đưa ra nhiều quyết sách quan trọng, đó là: Hội nghị tháng 3-1937 thống nhất các tổ chức Đảng ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, xác định những chủ trương mới thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển; Hội nghị tháng 9-1937 thông qua một số quyết định quan trọng về việc thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương, phát triển cơ sở đảng trong các thành thị và đồn điền, kết hợp các hình thức đấu tranh công khai và bán công khai... Nhờ vậy, chỉ trong một năm, Đảng ta từ chỗ bị địch khủng bố trắng đã thành lập lại Ban Chấp hành Trung ương và Ban Thường vụ Trung ương; Hội nghị tháng 3-1938 phân tích thái độ của các đảng phái, các tổ chức chính trị ở Đông Dương, công tác quần chúng, công tác tổ chức và lãnh đạo của Đảng, quyết định đổi Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương thành Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương.

Tổng Bí thư Hà Huy Tập còn là một nhà lý luận chính trị sắc sảo, giữ vị trí quan trọng trong hoạt động báo chí, xuất bản. Ông là người sáng lập, tổng biên tập của nhiều tờ báo, cơ quan ngôn luận của Trung ương Đảng, tích cực nghiên cứu lịch sử Đảng. Ở tuổi 23, ông đã hoàn thành cuốn Sơ thảo lịch sử phong trào cộng sản ở Đông Dương, tổng kết sâu sắc thực tiễn cách mạng Việt Nam trong những năm đầu do Đảng lãnh đạo. Ngoài ra, ông còn viết khoảng 25 tác phẩm khác. Bằng ngòi bút đầy tính chiến đấu dưới nhiều bút danh khác nhau, Tổng Bí thư Hà Huy Tập đã viết nhiều bài báo vạch trần bộ mặt thật, phê phán quan điểm phản động của các phần tử Trôtxkít; tuyên truyền, kiên định bảo vệ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Các tác phẩm “Vì một Mặt trận nhân dân Đông Dương”, “Vì sao cần sự ủng hộ Mặt trận bình dân bên Pháp”... của ông là những tác phẩm lý luận chính trị của Đảng có giá trị, góp phần chỉ đạo cách mạng trong thời kỳ vận động dân chủ. Tư duy và sự nhạy bén chính trị của ông còn thể hiện ở quan điểm dân tộc, giai cấp, coi đây là một điều kiện cơ bản dẫn tới mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Từ một trí thức yêu nước, đi theo con đường cách mạng và trở thành Tổng Bí thư của Đảng ở tuổi 30, Hà Huy Tập đã tỏ rõ năng lực dự báo tình hình, nắm bắt thời cơ, tận dụng mọi điều kiện thuận lợi cùng với các cơ quan lãnh đạo của Đảng ta lúc đó đưa ra những quyết sách phù hợp; đồng thời, trực tiếp chỉ đạo các hoạt động của Đảng, biến thời cơ thành hiện thực, dấy lên cao trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, hòa bình và chống chiến tranh đế quốc ở nước ta những năm 1936-1939.

Đối mặt với nhiều án tù của thực dân đế quốc, trong đó có án tử hình, thường xuyên bị kẻ thù rình rập, bao vây, khống chế cả về vật chất và tinh thần, thậm chí bị giam cầm, tra tấn dã man, nhưng Tổng Bí thư Hà Huy Tập vẫn kiên trung, bất khuất, giữ vững niềm tin và ý chí chiến đấu của người cộng sản. Ông đã anh dũng hy sinh trước mũi súng tàn bạo của kẻ thù ở tuổi 35 với lời nhắn gửi: “Hãy xem tôi như người còn sống” đã thể hiện niềm tin mãnh liệt, khát vọng cống hiến, chiến đấu cho lý tưởng cao cả của Đảng và dân tộc.

Những đóng góp của Tổng Bí thư Hà Huy Tập cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta và dân tộc ta là rất quan trọng và to lớn. Sự nghiệp cách mạng vẻ vang của ông đã để lại cho chúng ta bài học vô cùng quý giá về lý tưởng cộng sản, về tinh thần học tập, rèn luyện, phấn đấu không ngừng, về ý chí chiến đâu đến hơi thở cuối cùng vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc, ấm no của nhân dân. Tinh thần và sự nghiệp cách mạng vẻ vang của đồng chí Hà Huy Tập sống mãi cùng với Đảng, Tổ quốc và nhân dân ta.

(Theo Đề cương của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy)


Ý kiến bạn đọc


(E-magazine) Kiến tạo kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Đắk Lắk không chỉ nằm trong khu vực có hệ sinh thái tự nhiên phong phú, đa dạng phù hợp cho phát triển nông nghiệp, mà còn là địa phương có đến 49/53 dân tộc thiểu số cùng sinh sống. Đây là lợi thế cạnh tranh rất lớn cho tỉnh trong xây dựng và phát triển Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), tạo dựng nền nông nghiệp giàu bản sắc, kiến tạo kinh tế vùng nông thôn vững mạnh, tạo cú hích nâng tầm giá trị cho nông sản địa phương vươn ra thị trường trong và ngoài nước.