Multimedia Đọc Báo in

Người lính già kể chuyện xây "loa thành" Trường Sa

11:01, 01/05/2016
Cách đây 41 năm, sau khi Trường Sa được giải phóng, những người lính trẻ Trung đoàn 83 và Trung đoàn 131 Công binh Hải quân đã lên đường đi Trường Sa xây đảo. Giữa đại dương bao la, họ dầm mình trong mưa rào, nắng lửa, đối mặt với bao gian khổ, thiếu thốn, khắc nghiệt của bão tố để tạo nên những “loa thành” mang dáng hình Tổ quốc giữa biển Đông.
 
41 năm trước đây, cựu chiến binh Trần Quốc Thống (hiện trú tại Vũng Tàu) là Trung tá chỉ huy Công binh Hải quân cầm quân vượt sóng ra dựng nhà xây đảo Trường Sa Lớn - “thủ phủ” của Quần đảo Trường Sa được xây dựng giữa biển Đông. Ông Thống nhớ lại: “Sau giải phóng Trường Sa năm 1975, nhiệm vụ xây dựng đảo Trường Sa được đặt lên hàng đầu. Điều đó có ý nghĩa chính trị đặc biệt quan trọng trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ hướng biển, khẳng định với thế giới rằng Quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam. Mặc dù đi Trường Sa ngày ấy đồng nghĩa với sinh tử song lúc đó lính trẻ không chùn bước. Biết là phải đối mặt với nhiều thử thách, có thể phải hy sinh tính mạng nhưng anh em luôn sẵn sàng đảm nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ”.
 
8 tháng sau ngày đất nước thống nhất, trước yêu cầu khách quan về nhà ở và hệ thống phòng thủ bảo vệ đảo, Bộ Quốc phòng đã giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Hải quân tiến hành khảo sát xây dựng các nhà kiên cố trên Quần đảo Trường Sa. Việc xây dựng phải bảo đảm 2 yếu tố cơ bản: Phải là nơi phòng thủ kiên cố có tầm quan sát rộng, tiện cho cơ động sẵn sàng chiến đấu; tránh nắng nóng, tránh được ẩm thấp nước biển mặn, đón được hướng gió, bảo đảm mọi sinh hoạt công tác, huấn luyện, vui chơi của bộ đội. Nhận nhiệm vụ đặc biệt quan trọng này, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 83 Công binh Hải quân xác định: dù khó khăn đến mấy, dù phải hy sinh tính mạng cũng phải xây dựng bằng được nhà kiên cố lâu bền trên các cụm đảo Trường Sa, đó là mệnh lệnh từ trái tim người lính đối với Tổ quốc nơi tuyến đầu. Kế hoạch từ khâu vận chuyển đá, thép, vật liệu từ đất liền ra đảo được bàn thảo khẩn trương và khoa học. Hàng nghìn khối đá, xi măng, sắt thép và vật liệu xây dựng được chuyển xuống tàu, vượt sóng gió ra Trường Sa. 
Trên đường đến đảo chìm Đá Lát - ngôi nhà mang dáng hình Tổ quốc giữa biển khơi.
Trên đường đến đảo chìm Đá Lát - ngôi nhà mang dáng hình Tổ quốc giữa biển khơi.
 
Chuyến tàu đầu tiên mang tên Đại Khánh có trọng tải 75 tấn do Đại úy Lê Nhật Cát - nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 83 chỉ huy 70 cán bộ, chiến sĩ trẻ lên đường ra đảo Trường Sa Lớn vào cuối tháng 4-1976. Trường Sa Lớn ngày đầu giải phóng toàn là đất đá và thuốc súng; ban ngày nhiệt độ nóng đến 38oC cộng với gió Tây Nam thổi mạnh, hơi nước mặn từ biển bốc lên càng làm cho khí hậu thêm khắc nghiệt. Công việc đầu tiên của cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 83 Công binh Hải quân là thiết kế nơi ăn ở, nhanh chóng bắt tay vào xây đảo. Một bài toán vô cùng khó khăn đặt ra là làm gì để có nước ngọt, trong khi lượng nước ngọt do tàu Đại Khánh đựng trong can nhựa vơi dần, trời thì không mưa, nước từ giếng nhiễm mặn không sao dùng được. 
 
Thời điểm đó, chỉ có Trường Sa Lớn và Song Tử Tây có nước ngọt bởi hai đảo này có bể chứa nước của lính Việt Nam Cộng hòa để lại, mỗi bể chừng 6 khối song lúc đó cũng không dùng được vì nhiễm thuốc súng, phân và lông chim. Trước tình thế ấy, chỉ có một cách là tiết kiệm nước tối đa cho đến khi có nguồn nước viện trợ từ đất liền. Kế hoạch tiết kiệm là mỗi người 1 lít/ngày cho cả đánh răng, rửa mặt. “Nói là một lít nhưng chúng tôi múc đầy cái cà-mèn của Liên Xô cũng được hơn một lít. Chừng ấy nước, lúc xây đảo, tôi chỉ tu hai hơi là hết, vậy mà phải uống dè” - cựu binh Thống chia sẻ. Chiều chiều, các chiến sĩ lội xuống biển tắm, người nọ kỳ lưng cho người kia, tắm xong anh em lên dội lại nước lợ từ giếng. Do tắm nước biển lâu ngày, da người nào cũng xù xì như lớp sừng bám, người đen cháy. Việc ăn uống vô cùng khổ sở. Có bữa ăn, cả đại đội chỉ có vẻn vẹn 4 hộp thịt của Liên Xô, đổ thêm nước rồi nấu sôi, chan cơm. Anh em thèm một bữa rau xanh cháy cổ nhưng lấy đâu ra rau xanh giữa Trường Sa chỉ có nắng gió, cát và sỏi đá ấy. Ông Thống nhớ lại: “Khó khăn thì không thể nói hết được nhưng điều quan trọng là cán bộ, chiến sĩ luôn vững vàng tư tưởng, quyết tâm xây đảo dù gian khổ, hy sinh”.
 
Dưới cái nắng như thiêu như đốt, các chiến sĩ quần đùi áo lót ngày đêm vận chuyển vật liệu từ tàu vào đảo trên đá san hô. Trung bình mỗi chiến sĩ vác 200 hòn đá mỗi ngày. Nắng gió rát mặt, các chiến sĩ như những con ong chăm chỉ, người vác đá, người trộn hồ, xây gạch. Sau gần một tháng thi công, ngôi nhà đầu tiên trên đảo Trường Sa Lớn hoàn thành cuối tháng 5-1976. Có lẽ ông Thống không bao giờ quên được giây phút ông và đồng đội ôm nhau khóc giữa biển khơi vào ngày khánh thành ngôi nhà đầu tiên trên đảo Trường Sa lớn. “41 năm rồi, sao quên được cái buổi sáng hôm ấy. Nhìn ngôi nhà sừng sững giữa đại dương, chúng tôi bật khóc. Khóc vì sung sướng. Chúng tôi ôm nhau reo hò trong nước mắt chứa chan”, ông Thống bồi hồi nhớ lại.
 
Trường Sa Lớn là đảo nổi đầu tiên được xây dựng. Đây là đảo nằm trong cụm T1, tức là đảo thuộc Sở Chỉ huy trung tâm. Nhà xây dựng trên đảo này là loại nhà “sê-ri” thế hệ đầu tiên kết cấu nửa chìm nửa nổi, chiều cao 2,8 mét, trong đó 1,5 mét ẩn âm trong lòng đảo, lòng nhà rộng 4,5 mét theo hình lục giác, có các cửa sổ, hứng gió 4 phía. Cùng thời điểm này, các công trình tại các đảo Song Tử Tây, Nam Yết, Sinh Tồn, Sơn Ca cũng được từng bước xây dựng. Mỗi một công trình đều gắn liền với mồ hôi, nước mắt và xương máu của lính người Công binh lúc đó.
 
Sau 41 năm xây dựng và phát triển, đến nay Trường Sa đã trở thành thị tứ sầm uất giữa biển khơi, đời sống của quân dân ngày một khởi sắc. 100% các đảo nổi, đảo chìm có điện thắp sáng bằng pin năng lượng mặt trời, phủ sóng Đài Truyền hình Việt Nam và điện thoại di động. Ngoài nhiệm vụ canh giữ chủ quyền Tổ quốc, mỗi đảo, điểm đảo còn là điểm tựa cho bà con ngư dân từ đất liền ra đánh bắt thủy hải sản trên vùng biển này. 
 
Tuấn Cường
 

 


Ý kiến bạn đọc


(E-magazine) Kiến tạo kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Đắk Lắk không chỉ nằm trong khu vực có hệ sinh thái tự nhiên phong phú, đa dạng phù hợp cho phát triển nông nghiệp, mà còn là địa phương có đến 49/53 dân tộc thiểu số cùng sinh sống. Đây là lợi thế cạnh tranh rất lớn cho tỉnh trong xây dựng và phát triển Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), tạo dựng nền nông nghiệp giàu bản sắc, kiến tạo kinh tế vùng nông thôn vững mạnh, tạo cú hích nâng tầm giá trị cho nông sản địa phương vươn ra thị trường trong và ngoài nước.