Kỷ NIệM 55 NĂM NGÀY Mở ĐƯờNG Hồ CHÍ MINH TRÊN BIểN(23-10-1961 – 23-10-2016)
Thuyền trưởng tàu không số và giọt nước mắt thời lửa đạn
Ôm tấm bằng Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân do Đảng và Nhà nước phong tặng, người thuyền trưởng tàu không số năm xưa rưng rưng nước mắt: “Tấm bằng này thấm máu đồng đội linh thiêng. Xin cảm ơn các đồng chí - những người đã ngã xuống cho Tổ quốc nở hoa, cho đường Hồ Chí Minh mãi là con đường bất tử của dân tộc”. Ông là Nguyễn Sơn, một trong 7 người được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cuối năm 2015.
Hải trình sóng gió của những chiến sĩ tàu không số
Ông Nguyễn Sơn đón chúng tôi trong căn nhà cấp bốn do Lữ đoàn 125 xây dựng. Bên ly trà hương lài Nam Bộ, ông cười giới thiệu: “Tôi có đến 5 cái tên lận. Tên mẹ đẻ là Nguyễn Văn Phe, thời gian ở đơn vị 555 tên là Nguyễn Văn Chiến. Tên Chiến là lấy một trong 10 chữ trong lời thề quyết tâm của đơn vị 555 ngày ấy “Việt - Nam - Hùng - Dũng- Chiến - Đấu - Thắng - Lợi- Vinh - Quang”. Khi vượt biển bí mật ra Bắc tên là Nguyễn Văn Em, Nguyễn Sơn là tên do Phó Thủ tướng Phạm Hùng đặt trên tàu hỏa khi được Bộ Tổng tham mưu đón từ đảo Hải Nam (Trung Quốc) về Hà Nội năm 1962, khi chuyển sang tàu 2 đáy lại tên là Nguyễn Văn Hòa”.
Ông bắt đầu câu chuyện bằng ký ức ngày đầu rời quê hương vượt biển ra Bắc… Ngày 17-2-1962, từ cửa biển Lộc An (Phước Hải, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu), Nguyễn Sơn và 5 chiến sĩ khác ở đơn vị 555 - một đơn vị đặc biệt có mật hiệu CR - đã bí mật xuống ghe vượt biển ra Bắc. Mỗi người đem theo một hộp sữa bò, 6 bộ quần áo, 12 cheo lưới, 6 giấy thế thân (giấy căn cước) và tình yêu Tổ quốc vô hạn. Họ đi trên chiếc ghe mui trần suốt 5 ngày đêm vượt qua bao sóng gió mà không ai nản lòng bởi ai cũng nghĩ, dù phải chết cũng quyết tâm ra Bắc tiếp nhận vũ khí. Đó là danh dự, là lời thề thiêng liêng của người lính, một khi đã ra đi thì không bao giờ lùi bước.
Sáu chiến sĩ Đoàn tàu không số Làng chài Phước Hải năm xưa (ông Nguyễn Sơn đứng sau bên phải). Ảnh: T.L |
Sáng 5-3-1962, khi ghe đến vịnh Cam Ranh (Khánh Hòa) máy tàu bị hỏng, đúng lúc ấy thì thủy quân lục chiến của địch phát hiện. Chúng bắt 6 chiến sĩ đem giam vào nhà lao Khánh Hòa. Tình huống vô cùng gay cấn, 6 chiến sĩ bấm bụng không thể để lộ bí mật, muốn không lộ tung tích là quân giải phóng miền Đông Nam Bộ, bằng mọi cách phải hủy 6 bộ quần áo. Các chiến sĩ giả vờ đau bụng đòi đi ngoài và nhanh chóng, bí mật dìm bộ quần áo quân giải phóng xuống bùn đen.
Biết không khai thác được thông tin gì từ “mấy thằng ngư dân đánh cá”, sau gần 3 tháng giam giữ, địch đã thả 6 chiến sĩ. Sau đó, các chiến sĩ ra phía vịnh Cam Ranh tìm ghe để tiếp tục hành trình. Rời Vịnh Cam Ranh với 1 bao gạo, 1 can nước, 2 can dầu, ít rau nhặt từ chợ, các anh xuống ghe tiếp tục hành trình “đến được miền Bắc xã hội chủ nghĩa”. Vừa đi vừa bí mật tiếp cận dò la tin tức, móc nối với cách mạng. Nước uống dù tiết kiệm lắm cũng chỉ được 2 tuần. Không thể chết vì khát, các chiến sĩ đã phải uống nước tiểu của mình. “Đến lúc nước tiểu cũng không có nữa vì có gì uống đâu mà đái ra được. Lúc đó tôi đã nghĩ đến nấu nước biển mặn theo cách nấu rượu để lấy nước ngọt. Tôi dùng cái nồi nấu cơm, đổ nước biển trong đó, úp vung lên và nấu. Hơi nước ngọt ngưng tụ trên nắp vung, chúng tôi liếm nắp vung nhưng không hết lượt. Không phải là thừa nước, mà là nhường nhịn nhau vì thương nhau quá. Anh em nhìn nhau trào nước mắt. Càng trào nước mắt, càng quyết tâm vượt biển đến hơi thở cuối cùng” - giọng ông Sơn chùng xuống nghèn nghẹn.
Chuyện tình đẹp như cổ tích
Hành trang mà ông Sơn mang theo trong chuyến vượt biển ra Bắc ngày ấy, ngoài tình yêu Tổ quốc, còn là lời ước hẹn với cô thôn nữ tên Phương ở quê nhà.
Sau khi người yêu vượt biển ra Bắc trên chuyến tàu không số, Phương đã làm đơn tình nguyện tòng quân nhập ngũ vào đơn vị 555 và được má Mười Riều nhận làm con nuôi rồi cho đi học y tá. Sau đó, Phương về công tác ở đơn vị 1500, rồi đơn vị K-76A Quân khu 7 với nhiệm vụ cứu chữa thương binh vùng ngoại tuyến.
Ông Sơn cùng đồng đội trở về trên chuyến tàu mang bí số “56” của đoàn tàu không số chở vũ khí đạn dược bí mật vượt biển vào cảng Vũng Tàu vào lúc 9 giờ sáng 29-4-1975. Từ loa phát thanh, tiếng cô phát thanh viên dõng dạc: “Tỉnh lỵ Vũng Tàu Côn Đảo đã được giải phóng hoàn toàn”. Ông Sơn ôm chầm lấy đồng đội mà khóc. Trong đám đông những người có mặt ở cảng Vũng Tàu đón chiến sĩ đoàn tàu không số trở về sáng ấy có cô chiến sĩ quân giải phóng đội mũ tai bèo, quàng khăn rằn, tay cầm bó hoa súng ngóng đợi. Nhận ra người yêu đang dẫn đầu hàng quân, Phương gọi to, cầm bó hoa chạy về phía Sơn. Họ gặp nhau, nước mắt vỡ òa sau 13 năm xa cách.
Một tuần sau ngày cưới, ông Sơn tạm biệt vợ rồi tiếp tục đi chiến đấu tại chiến trường Campuchia. Hai lần bà Phương sinh con, ông đều đang ở chiến trường. Từ năm 1976 đến 1991, ông trải qua nhiều chức vụ khác nhau và chiến đấu khắp chiến trường Campuchia, chiến trường biên giới Tây Nam. Năm 1992, ông Sơn nghỉ hưu với cấp hàm Đại úy. Tiếc là người vợ tảo tần không sống được với ông lâu. Đến nay, bà đã mất hơn 20 năm…
Thắp nén hương tưởng nhớ người vợ thân yêu, nước mắt ông Sơn lưng tròng. Ông khóc thương những đồng đội năm xưa đã ngã xuống. Ông cũng khóc trong niềm vui sướng khi nhận được danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cao quý mà Đảng và Nhà nước trao tặng…
Mai Thắng
Ý kiến bạn đọc