Những ngày tháng không thể nào quên…
Như những con chim sẻ nhỏ chập chững bay rời cánh mẹ, tháng 12-1965 chúng tôi: Măng Thị Hội, Thanh Bình và Linh Nga Niê Kđăm được Đoàn Ca múa Tây Nguyên (nay là Nhà hát Đam San, tỉnh Gia Lai) đón từ Thất Khê (Lạng Sơn), nơi sơ tán của học sinh Trường Dân tộc miền Nam về Sen Hồ (Bắc Giang).
Tháng 9-1966, thêm Kim Nhất khoác lỉnh kỉnh chậu, giỏ, tư trang đi bộ lên Yên Dũng (Bắc Giang) học Trung cấp thanh nhạc tại Trường Âm nhạc Việt Nam, lúc ấy cũng sơ tán tại Bắc Giang. Đây là chiến lược bổ sung diễn viên trẻ cho đoàn bởi cùng với chúng tôi còn có 10 học sinh người các dân tộc Tây Nguyên khác đi sơ tán, cùng Trường Múa Việt Nam ở Phú Bình (Thái Nguyên) đều do nhạc sĩ Kpă Púi tuyển chọn.
Ở đó, như mọi sinh viên khác, ngày ngày chúng tôi học hát, học đàn dưới những căn nhà nửa nổi nửa chìm, mái lúp xúp trùm sát mặt đất. Ở đó, chiều chiều chúng tôi thay nhau quét đầy những chiếc thúng lá tre khô (chất đốt thứ hai sau rơm) vừa giúp gia đình làm sạch vườn, vừa luộc nồi củ dằn xuống những cái bao tử lép kẹp vì bữa ăn chỉ có bát ngô răng ngựa vàng khè với tô canh su hào trắng lõng bõng màu cà chua đỏ. Ở đó, làng nhiều cây trái xanh mát. Không ít lần đào giao thông hào đói quá, chúng tôi mua chịu trái mít chín, chừa mỗi lớp vỏ mỏng đầy gai cho bầy lợn trong chuồng nhà bà chủ, còn hột đem luộc, xơ mít mang xào, chén tất.
Đoàn Ca múa Tây Nguyên tại Sư đoàn 470, Buôn Ma Thuột năm 1975. |
Đầu năm 1970, đang học năm thứ tư, một mình tôi được lệnh trở lại đoàn để chuẩn bị đi phục vụ chiến trường Tây Nguyên. Rời vùng quê ngan ngát tím hoa xoan, đêm hương lúa thoảng bay vào giấc ngủ, tôi trở lại Hà Nội. Ba lô, tăng, võng, trang phục, cả mũ tai bèo lẫn thuốc đau bụng, sốt rét… các loại vật dụng thiết yếu như một người lính, chúng tôi đã nhận đủ với tâm thế hăng hái đợi ngày lên đường. Ấy thế mà không rõ vì lý do gì, trong khi một nửa các Đoàn Ca múa miền Nam, Dân ca kịch và một số đơn vị khác lên đường, Đoàn ca múa Tây Nguyên vẫn ở lại.
Tháng 5-1971, tôi đã trở lên trường nhạc học tiếp nhưng do quân số của Đoàn Ca múa miền Nam còn ở Hà Nội quá ít nên lại được gọi về bổ sung để tập rồi cùng đi phục vụ Đoàn 559 theo đường Trường Sơn. Thời gian 4 tháng. Chúng tôi không phải hành quân bộ mà có xe tải phủ bạt kín chở tới mọi binh trạm. Qua phà Long Đại là bắt đầu những điểm diễn, có thể là ban đêm dưới ánh lửa và đèn măng sông tù mù, có thể là ban ngày dưới những vòm cây lá rậm rạp, trên đường hành quân ra phía trước của bộ đội. Trên đường đi, thứ mà các nhạc công của đoàn gìn giữ nhất không phải tư trang, mà là chiếc đàn Arcocdion, cây đàn Vionlon, kèn Trompet… Còn người thì… mỗi lần đến binh trạm nhìn ai cũng tức cười vì chỉ có hai con mắt, còn từ tóc tai đến quần áo đều nhuộm đỏ màu bụi Trường Sơn. Lúc nào cũng vội vàng tắm gội, trang điểm đôi chút (để bộ đội được nhìn thấy những cô gái xinh đẹp, duyên dáng), rồi véo von hát, uyển chuyển múa… Cả người xem lẫn người biểu diễn đều rất say sưa. Khuya nằm trên võng bọc dù kín mít đung đưa giữa rừng, người đau nhừ đến muốn khóc, ấy vậy mà sáng sớm lãnh hai nắm cơm, chút ruốc mặn, mấy bánh lương khô rồi lại lên đường mà chẳng thấy ai kêu ca, than thở. Xe chúng tôi cũng từng vượt qua rừng săng lẻ xác xơ sau khi bị pháo dập; từng hành quân ban ngày qua một cung đường trống trải, tản vào giao thông hào tránh máy bay thì bom phía sau nổ; từng bẻ đọt măng, hái lá rau tàu bay non nấu canh hoặc anh nuôi không kịp nấu thì trệu trạo nhai lương khô B40… Ấy vậy mà khi quay trở lại Bộ Tư lệnh 559, hội tụ với cả đoàn, nhóm chúng tôi chẳng ai bị thương tích gì.
Ca sĩ Linh Nga Niê Kđăm tại thị xã Buôn Ma Thuột năm 1975. |
Tháng 3-1975. Tin chiến thắng Buôn Ma Thuột dội về khiến người Hà Nội ra đường đâu đâu cũng chỉ toàn thấy những nụ cười. Bài hát “Tây Nguyên giải phóng” của nhạc sĩ Kpă Púi với tiếng hát Kim Nhớ và “Đường chúng ta đi” của nhạc sĩ Huy Du do Doãn Tần hát phát liên tục náo nức suốt đêm ngày trên loa công cộng.
Đoàn Ca múa Tây Nguyên chỉ có một tháng để chuẩn bị. Lá cờ đỏ cắm trước đầu xe Hải Âu phần phật xé gió lao đi. Chỉ dừng ăn, ngủ và chậm lại khi qua những đoạn đường từng bị bom đạn phá. Cảm xúc thật khó tả, trong đoàn dường như ít người ngủ được. Qua cầu Hiền Lương, cả đoàn đập tay vào thành xe, la lên rầm rầm vì phấn khích. Đến khi dừng ăn trưa ở thị xã An Khê, các bạn quê Gia Lai đều khóc. Đinh Yên, nhạc công kèn Trompet đứng giữa Quốc lộ 19, giơ hai tay lên trời nhảy cẫng và hét lên: “Quê hương ơi, tui đây rồi”…
Chiều muộn ngày 14-5-1975, xe chúng tôi dừng trước căn nhà gỗ hai tầng rợp bóng hoa giấy đỏ của Ban Quân quản tỉnh Đắk Lắk. 4 giờ sáng, cả đoàn đã chỉnh tề quân phục, lên xe để tham dự mít tinh mừng đất nước thống nhất. Xe chạy rất chậm bởi từ các ngả đường qua Ngã Sáu, hàng đoàn người với biểu ngữ, cờ đỏ trên tay, hân hoan tiến vào sân vận động. Áo dài là các mẹ, các chị ở chợ và vùng ven. Thẳng hàng toàn màu xanh lá cây là bộ đội. Nhiều nhất là áo, khố, váy thổ cẩm đen, đỏ của bà con các buôn. Chúng tôi chỉ đứng ngây ra mà nhìn vì không khí ấy náo nức quá, xúc động quá. Cuộc mít tinh kết thúc, bà con còn diễu hành quanh các ngả đường thị xã, rồi mới tỏa về các cổng thị xã trong cờ hoa rực rỡ và tiếng hoan hô tràn ngập phố phường. Bức ảnh đen trắng của nghệ sĩ Trần Cừ chụp đoàn người diễu hành mang hình chữ S ở Ngã Sáu Ban Mê chính là thời điểm đó.
Đêm ấy, chúng tôi diễn buổi đầu tiên ở sân vận động, chưa bao giờ lượng người xem đông đến ngợp như thế. Giọng hát ai dường như cũng bay bổng hơn, cánh tay nghệ sĩ múa dẻo hơn. Tiết mục nào cũng được hoan hô muốn diễn lại, nhất là bài song ca “Trước ngày hội bắn” của ca sĩ Adam Đài Son và tôi, chúng tôi không thể rời sân khấu vì tiếng vỗ tay kéo dài. Cảm giác thật sung sướng…
Mới có hai tháng sau khi Buôn Ma Thuột im tiếng súng, vậy mà thị xã đã trở lại hoạt động bình thường. Từ các tầng của khách sạn Hoàng Gia, bây giờ là trụ sở của Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Đắk Lắk, chúng tôi ngắm xe máy, xe đạp, ô tô và người nườm nượp, nghe tiếng miền Nam ríu rít. Chợ đầy các loại hàng hóa. Rau củ dưới suối Đốc Học đưa lên xanh mướt. Ai trong đoàn cũng cố chọn cho mình một món quà thật lạ, thật cần thiết cho người thân ở quê và còn ở miền Bắc.
Nhớ nhất đêm diễn ở Khuê Ngọc Điền, xe chúng tôi đậu bên suối để tài xế và phụ rửa xe. Rất nhiều bà con (đàn ông vẫn còn mặc khố) đến sờ vào xe hỏi: “Cái nhà to biết chạy này chưa thấy bao giờ. Sao tới được đây hè?”. Họ nghe nói có văn công đến, phải đi từ khi con gà trống đuôi đỏ gáy lần đầu mới tới được điểm diễn. Có người rờ chân tay, thân hình diễn viên, hỏi có thật người Thượng không, sao đẹp trai đẹp gái thế? Khu căn cứ ít dân nên diễn viên chúng tôi cũng chỉ bằng số người xem. Diễn xong Đoàn còn tặng bà con vài cân bột ngọt đã chuẩn bị sẵn. Tình cảm rất quyến luyến bởi đồng nghiệp tôi như đã được trở về buôn làng với cha mẹ mình vậy. Giọng nam trầm của ca sĩ Siu Phích dường như đắm đuối hơn trong ca khúc “Trở về Tây Nguyên” của nhạc sĩ Xuân Giao, rằng “Ta sẽ quay về Tây Nguyên, với suối xưa trôi êm đềm. Đêm đêm vang tiếng đàn T’rưng, ngân nga trên khắp làng buôn…”.
Đoàn ở lại Buôn Ma Thuột hơn một tháng, tỏa đi các huyện. Đến đâu diễn xong cũng được nấu cháo gà cho ăn, dù nói rõ đoàn có người nấu ăn khuya tại chỗ ở rồi, bà con vẫn bắt ăn xong mới cho về. Đang giữa mùa mưa, có lần diễn xong xe sa lầy, sáng ra một số diễn viên phải leo lên xe bò vàng dùng chở gỗ để về phố. Lần đầu tiên chúng tôi được chiêm ngưỡng hai bên đường rừng đại ngàn hùng vĩ, cổ thụ xanh đến vô tận (đa số các bạn đều tập kết ra Bắc lúc tuổi còn nhỏ, hoặc như chúng tôi chưa bao giờ đến Tây Nguyên). Nhớ mãi lúc giao lưu chuyên môn vô cùng thân thiết với các diễn viên mới tuyển của Đoàn Văn công Đắk Lắk (những Y Moan, Mạnh Trí, Mỹ Lệ, Quỳnh Như, Y Blé, Y Dôch, H’Doan, H’Boan… thuở ban đầu ngơ ngác ấy). Nhớ các bạn gái trai Ban Mê mới quen, dễ mến, chân tình, đi xem biểu diễn trong rạp Hòa Lạc ăn mặc lịch sự như đi dự dạ hội… Và làm sao quên được mấy bà má ghé vô khách sạn Hoàng Gia “cho các con mấy chục đòn bánh tét ăn sáng”... Những điều nhỏ nhặt mà cứ đọng mãi trong trí nhớ…
Đoàn được nghỉ hai ngày, tôi được chú Y Wung, lúc đó làm Giám đốc Đài Phát thanh tỉnh đưa về quê. Tâm hồn thổn thức, không chỉ vì ngày lên đường ba Y Ngông của tôi đau đáu nhắc ghi vào sổ tên buôn K’mrơng, tên cô út H’Drŏ để tìm… mà còn vì nỗi buồn gần 30 năm ba chưa được về quê nhưng ông bà thì đã bay tới chốn Yang Atâo tự thuở nào, không tìm được phần mộ (theo tập quán bỏ mả của tộc người)… Cả sự nghẹn ngào rất vô cớ vì con đường về buôn đất đỏ au mịn màng, rải kín những cánh hoa muồng nho nhỏ như một tấm thảm vàng chào đón. Lần đầu tiên tôi chứng kiến sự sẻ chia của mọi người trong buôn, khi chiếc nia to cứ đầy mãi lên nào gà, gạo, rau, bắp, chuối… và hàng ché rượu cần mỗi lúc một buộc dài trên sàn trong tiếng ching knah sầm sập. Ôi! Ban Mê của tôi. Những ngày đầu tiên đâu dễ ai quên…
Hồi ký của H’Linh Niê
Ý kiến bạn đọc