DÂN TỘC CHU-RU
Dân tộc Chu-ru còn có các tên gọi khác là Chơ-ru, Ru. Người Chu-ru có tên 10.000 nhân khẩu, chủ yếu ở huyện Đơn Dương (Lâm Đồng), số còn lại ở tỉnh Bình Thuận. Tiếng Chu-ru thuộc hệ ngôn ngữ Nam Đảo.
Người Chu-ru sống định canh định cư với nghề làm ruộng từ lâu đời. Giờ đây đồng bào còn trồng dâu nuôi tằm, đời sống tương đối ổn định. Ngoài trồng trọt, người Chu-ru còn chăn nuôi trâu, bò, lợn, dê và nhiều loại gia cầm. Người Chu-ru còn biết đan lát các đồ dùng gia đình bằng mây tre, tự rèn các công cụ sản xuất như liềm, cuốc, dao... ; và có các làng nghề nổi tiếng về nghề làm gốm. Săn bắn, hái lượm và đánh cá đem lại nguồn thức ăn đáng kể hàng ngày.
Khèn bầu của người Chu-ru |
Làng (plây) của người Chu-ru bao gồm nhiều dòng họ và có cả những người khác tộc cư trú. Đứng đầu làng là Pô plây (trưởng làng) do bầu ra, không mang tính cha truyền con nối. Người có uy tín về tinh thần sau trưởng làng là thầy cúng.
Lễ hỏi chồng của người Chu-ru |
Đại gia đình người Chu-ru thường có 3-4 thế hệ, sống trong nhà dài. Hôn nhân một vợ một chồng, người con gái chủ động cưới chồng, người chồng cư trú bên nhà vợ.
Trang phục của người Chu-ru |
Người Chu-ru thờ cúng tổ tiên. Trong nhà không có bàn thờ, việc thờ cúng diễn ra ở nghĩa địa. Các nghi lễ nông nghiệp ở người Chu-ru khá phong phú như cúng thần đập nước, thần mương nước, thần lúa, ăn mừng lúa mới ... Đáng chú ý là lễ cúng thần Bơ-mung (thần đập nước) vào tháng 2 âm lịch. Người Chu-ru có vốn dân ca, ca dao tục ngữ phong phú, trong đó nổi bật chủ đề ca tụng chế độ mẫu hệ và vai trò của phụ nữ trong xã hội cổ truyền. Trong kho tàng văn nghệ dân gian có hàng loạt trường ca, truyện thơ có giá trị nghệ thuật cao và là nguồn sử liệu có giá trị lịch sử.
Đ.T (giới thiệu)
Nguồn tài liệu: Việt Nam hình ảnh cộng đồng 54 dân tộc – NXB Văn hóa dân tộc
Ý kiến bạn đọc