Những kiểu cầu hôn độc đáo trên vùng núi cao Tây Bắc
Việt Nam có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng cao với bản sắc văn hóa độc đáo, vì thế luôn hấp dẫn khách du lịch gần xa. Đồng bào các dân tộc ở vùng cao Tây Bắc có những kiểu cầu hôn rất độc đáo mà không nơi nào có được.
Có con rồi mới... cưới vợ
Dân tộc Hà Nhì là một trong những dân tộc thiểu số ở nước ta. Nơi họ sinh sống là vùng đất biên giới Lai Châu và Lào Cai. Trai gái dân tộc này có phong tục trùm kín chăn khi hát giao duyên tình tự với nhau mỗi khi trong bản có lễ hội. Có lẽ do miền đất họ sống gần như quanh năm giá lạnh, có nhiều mùa đông tuyết phủ trắng núi rừng, nếu không có chăn ấm làm sao mà họ ngồi lâu tâm tình với nhau được?
Nhưng có một lý do nữa, đó là phong tục người Hà Nhì không cho người khác nhìn thấy con trai giao duyên với con gái. Trùm chung chăn kín nhưng họ vẫn giữ được ranh giới nhất định, bởi vì luật tục của người Hà Nhì rất khắt khe với những cô gái chưa chồng.
Thanh niên Hà Nhì được tự do kết hôn, nếu bạn gái yêu mình thì chàng trai dẫn về nhà thưa chuyện với cha mẹ xin cưới làm vợ. Cả nhà đồng ý thì làm lễ trước bàn thờ “kính cáo" với tổ tiên gia đình mình có cô con dâu mới. Nhà chú rể làm cỗ mời cả họ hàng và dân bản tới cùng chia vui. Nếu có điều kiện thì nhà trai mang sang cho nhà cô dâu các thứ như: một số tiền mặt (trước đây là mấy đồng bạc trắng, nhiều năm gần đây là tiền mặt), một con lợn khoảng 50 cân, 50 lít rượu trắng, đôi gà sống, cùng xôi nếp và trứng chia đều làm hai gói... ÐĐây là lần cưới đầu tiên của trai bản Hà Nhì đối với vợ mình. Người vợ từ đó trở đi phải mang họ nhà chồng.
Khi có con hoặc kinh tế gia đình khá giả thì người chồng phải tổ chức đám cưới lần thứ hai... với chính vợ mình. Có phải do phải tìm hiểu kỹ trước khi kết hôn hay vì phong tục hôn nhân của người Hà Nhì chặt chẽ, mà vợ chồng các gia đình của dân tộc này rất ít khi ly hôn?
Thiếu nữ Hà Nhì |
Đó là phong tục đối với người con trai dân tộc Dao Đỏ. Sau khi để ý từ phiên chợ hay lễ hội của bản làng, nếu thích cô nào thì chàng trai về nói với bố mẹ đi tới nhà gái hỏi tuổi người mình yêu. Nếu hợp tuổi nhau thì gia đình chàng trai trao cho nhà cô gái đồng bạc trắng. Nhà gái dù muốn gả hay không, thì lần xin hỏi đầu họ cũng đều từ chối nhận đồng bạc trắng ấy.
Một thời gian sau, nhà trai lại tới xin ăn hỏi lần hai, nếu ba ngày sau đó mà không thấy nhà gái đem trả đồng bạc trắng, thì nhà trai biết chắc họ đã đồng ý gả con cho nhà mình. Gia đình chàng trai chọn ngày lành tháng tốt để mang lễ vật tới nhà cô gái bàn ngày cưới.
Sau lễ ăn hỏi chính thức, cô dâu tương lai được gia đình tạo điều kiện để có nhiều thời gian nhàn rỗi trong một năm để dệt may, thêu thùa hai bộ quần áo cưới từ số vải và chỉ thêu do nhà trai đưa tới hôm lễ ăn hỏi chính thức.
Nổi bật nhất trong đám cưới của người Dao Đỏ là trang phục của cô dâu với chiếc khăn đỏ lớn trùm đầu lên chiếc mũ đỏ màu cờ, đính nhiều nụ hoa tết từ len đỏ, cài xen những lắc nhạc đồng xinh xinh. Mũ áo của cô dâu người Dao Đỏ là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo về sắc màu và sự tinh sảo trong từng đường thêu hoa văn thổ cẩm truyền thống.
Đã có khá nhiều tác phẩm văn học - nghệ thuật mô tả vẻ đẹp hiếm có của trang phục phụ nữ Dao Đỏ. Đặc biệt là phong tục mời cưới của họ thay thiếp mời hồng bằng giấy là hai đồng tiền xu bằng kẽm cổ truyền, đó là biểu tượng gắn bó cả đời giữa cô dâu và chú rể. Người được mời dự cưới phải trả lại hai đồng tiền xu trên khi đi dự cưới và mừng cô dâu chú rể đồng tiền giấy (giống nhau về giá trị và giống nhau cả về hình thức, đựng trong phong bì kín), thí dụ mừng hai tờ 20 nghìn đồng hoặc hai tờ 50 nghìn đồng...
Cùng họ... không được phép lấy nhau
Người dân tộc Mông ở Tây Bắc, dù là dân tộc Mông hoa (Mông Lênhx), Mông trắng (Mông đơưz), Mông đen (Mông đuz), dù mang họ gì (thí dụ họ Giàng, họ Tráng, họ Thào, họ Cư, họ Má, họ Lừu...) nhưng khi trai gái yêu nhau mà phát hiện ra cùng có họ giống nhau, dù họ xa bao nhiêu đời đi nữa, cũng không được phép lấy nhau.
Xưa kia người Mông có tục cướp vợ, có lẽ vì thế không ít cô gái đã bị bắt ép làm vợ, còn ngày nay trai gái của dân tộc này được phép tự do kết hôn, còn có bắt thì giả vờ bắt cho vui mà thôi.
Theo phong tục truyền thống của người Mông, đã là cùng mang tên họ giống nhau thì đều coi là có chung tổ tiên, coi nhau như họ hàng và có thể sinh con hoặc chết ở nhà người cùng họ.
Người Mông ở huyện Bát Xát còn có một phong tục đặc biệt sáng ngày mồng một Tết Nguyên đán. Đó là chú rể phải tự nguyện làm tất cả mọi việc cho gia đình, từ nấu cỗ cho đến rửa bát, chăn gà lợn... Sau đó khách quý đến chơi nhà, người vợ chủ động làm cơm mời khách, chồng và khách uống rượu càng say thì người vợ càng vui. Các bà vợ rất vui vì họ được coi là người hiếu khách và rất yêu quý chồng.
Ý kiến bạn đọc