Mừng cơm mới với người Mày
Sống giữa đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, nhóm người Mày (dân tộc Chứt) ở Quảng Bình đang hòa nhập nhanh với xu thế xây dựng cuộc đời mới mà vẫn bảo lưu được cốt cách đặc sắc của tộc người mình…
Khi những hạt lúa nương, hạt lạc, củ sắn, củ khoai được thu hoạch rồi gùi về nhà, phơi khô, cất vào bồ cũng là lúc người Mày nghỉ ngơi sau một năm ròng rã chăm chút nương rẫy. Họ sẽ tổ chức lễ cúng cơm mới mà tổ tiên đã duy trì từ bao đời nay.
Ngày tổ chức lễ cúng do già làng người Mày quyết định, không ràng buộc bởi một ngày ấn định từ trước, nhưng nhất thiết phải diễn ra trong hai ngày vào trung tuần tháng Chạp. Theo suy diễn của đồng bào, cúng tế trời đất, tổ tiên không thể làm qua loa, đại khái mà phải thật cặn kẽ, to tát thì thần linh, ông bà mới thương…
Ông Hồ Chắt, người Mày, bản Ka Ai (Dân Hóa, Minh Hóa) đang đọc lời khấn trong lễ cúng cơm mới. |
Sáng sớm tinh mơ ngày cúng đầu tiên, từng chủ hộ đánh thức mỗi thành viên trong gia đình dậy, chuẩn bị lễ vật tinh tươm. Đến giờ cúng, chủ hộ, con trai được phép ngồi ngoài gian đã lập bàn thờ. Chủ hộ phải là đàn ông, không thì con trai, con rể đứng ra làm chủ lễ. Còn vợ, con gái, con dâu đứng tách biệt ở gian trong ngôi nhà sàn, không được bước tới gian để bàn thờ. Lễ vật cúng trong gia đình kết tinh từ hương hoa núi rừng gồm một đĩa trầu cau, một vò rượu cần, một con gà, một bát gạo tẻ, một cục xôi, một bộ cung tên, hai đọt lá nón, hai chai rượu trắng,... Ngoài ra, phải có một hòn đá suối và cặp ống trống mái. Cặp ống này làm bằng ống nứa, ống trống dài khoảng một mét, ống mái dài bằng nửa ống trống, trong đó chứa một nắm gạo nếp. Người ta dùng nứa chẻ cái que bản rộng bằng ngón tay trỏ dài chừng 20cm, một đầu vót nhọn rồi dùng dây mây buộc chặt vào phần gốc của hai ống trống mái. Đầu vót nhọn được buộc trồi ra để khi khấn họ sẽ cà vào hòn đá suối, phát ra âm thanh trầm bổng...
Từng người trong nhà đội lên đầu cái vòng cỏ kết bởi lá cây rừng còn phảng phất hương thơm tự nhiên. Chủ hộ ngồi trước bàn thờ, cầm hai ống trống mái cà lên hòn đá suối thành khẩn đọc lời khấn. Lời cầu khấn của người Mày đặc biệt ở chỗ được truyền nối từ đời này qua đời khác bằng tiếng dân tộc, không cho phép ai trong gia đình rò rỉ sang tai người ngoài. Khi các chủ hộ dứt lời khấn, giờ phút đó mới đúng là thời điểm khai hội của người Mày. Bà con san sẻ cho nhau đồ ăn, thức uống; tiếng nói cười rộn rã len lỏi khắp bản làng. Đàn ông quây quần bên vò rượu cần; phụ nữ xúng xính xiêm y mời nhau từng nắm nếp xôi; trẻ con nô đùa cùng đủ loại trái cây rừng... Tất cả hội tụ tạo thành một cảnh tượng no đủ, yên ấm.
Trọng điểm lễ mừng cơm mới của người Mày nằm ở ngày cúng thứ hai. Vì quy mô lên tới hàng trăm người nên có đợt chính quyền địa phương cùng già làng, trưởng bản chọn một ngã ba đường với bãi đất trống rộng rãi. Nhưng thường họ lấy địa điểm có khe nước lớn để tiến hành các nghi lễ. Thành phần mời tới dự có đại diện lãnh đạo địa phương, bộ đội biên phòng, hải quan, thầy cô giáo, các già làng, trưởng bản cùng bà con người Mày và các tộc người khác đến chung vui với người anh em của mình. Lễ vật trong ngày cúng thứ hai không tự người Mày chuẩn bị đơn lẻ mà do các tộc người anh em trong vùng gộp lại. Bản này chuẩn bị bánh đòn ép (một dạng bánh chưng), bản khác góp vui bằng những con lợn mán béo đẫy, các bản tiếp theo mang tới gà đồi, ốc suối, cá mát khe, rượu trắng, rượu cần, bánh kẹo... Chủ sự lễ cúng do một già làng uy tín người Mày đảm nhận. Khi khấn cũng theo nghi lễ như đã khấn trong từng gia đình. Lời khấn mà người Mày sử dụng trong mỗi dịp cúng cơm mới chứa đựng nhiều bí ẩn, nhưng tựu trung lại đó là những lời cầu khấn cho giang sơn xã tắc ngày một thịnh vượng, vái lạy trời đất ban mưa thuận gió hòa, yên ổn canh tác, cầu xin sức khỏe để chống chọi lại với thú dữ, núi rừng cheo leo, thiên nhiên khắc nghiệt…
Sắc màu lễ hội của người Mày được biểu hiện rõ khi lời khấn vừa dứt trên môi của già làng. Gái trai nối tay nhau thành vòng tròn hát vang hai làn điệu dân ca “Kà tơm-tà lênh” (con trâu đi cày) và “Kà răng-tà nên” (chiều về trên đỉnh núi) tạo nên không khí hăng say, vui nhộn, các chàng trai, cô gái còn lúng liếng gửi gắm tâm tình cho nhau. Các loại nhạc cụ dân gian, đàn ống (tờ rơ bon), sáo (pi), tù và (cà vá), chiêng (phèng la)… được đồng bào mang ra sử dụng hết tối đa công năng vốn có. Thời khắc đó đất trời và con người như được giao duyên, quyện lẫn vào nhau bởi sức sống nội sinh trong sinh hoạt văn hóa dân gian của người Mày.
Nguyễn Tiến Dũng
Ý kiến bạn đọc