Multimedia Đọc Báo in

Tục ở rể của người Mã Liềng

05:46, 30/05/2015
Năm 18 tuổi, thiếu nữ Mã Liềng (dân tộc Chứt) ở Quảng Bình sẽ được bố mẹ làm cho cái lễ trinh tiết theo những nghi thức truyền thống.

Từ bầy gà nhà, họ chọn một con gà mái tơ có mỏ to, lườn to để cúng, không làm thịt những con có lông màu đen, da nổi nhiều nốt sần. Đến giờ cúng, cô gái cùng với mẹ đứng ở gian bếp quay mặt vào bếp lửa, bằng tiếng dân tộc mình, bà mẹ đọc một bài khấn chừng vài phút rồi lấy một thanh sắt nhỏ đặt vào tay con gái - ấy là dấu chỉ của đoan trinh, nết na đối với bất cứ chàng trai nào có ý định đến với cô gái. Sau nghi lễ trinh tiết, các cô gái Mã Liềng hoàn toàn được tự do để con trai đến tìm hiểu hay tự bản thân đi tìm người đàn ông của đời mình. Bao giờ cũng thế, chân núi Cù Mốc sẽ là điểm hẹn yêu đương, là nơi chứng kiến những chuyện tình đẹp như mơ của nam thanh nữ tú người Mã Liềng. Bởi lẽ, tổ tiên của họ xem Cù Mốc là ngọn núi có thần tình ái ngự trị, hễ là con cháu Mã Liềng muốn thành thân với nhau thì sẽ phải tới đây để được ban phước và chúc phúc cho đời sống lứa đôi mà họ đang theo đuổi. Có thể họ đã yêu nhau từ lâu rồi dắt nhau đến đây để thề ước; cũng có thế là họ đến đây để tìm ý trung nhân. Vì thế quanh năm suốt tháng núi Cù Mốc đã trở thành nơi hò hẹn, tự tình, tràn ngập lời thủ thỉ yêu thương của gái trai.    

Chuyện dựng vợ gả chồng của người Mã Liềng phụ thuộc vào người mối lái. Đặc biệt, đàn ông lại là người mai mối, đàn bà không được phép làm công việc này. Người con trai Mã Liềng muốn lấy vợ, trước hết phải có lễ bỏ của gồm rượu, cau trầu, áo quần cho bố mẹ cô gái. Đến giờ làm lễ, ông mối sẽ dắt chàng trai đến nhà cô gái, đến nơi ông sẽ gõ vào chân cầu thang chín tiếng để dành sự tôn trọng tuyệt đối với gia chủ có con gái đến tuổi lấy chồng. Bố mẹ cô gái ăn vận chỉnh tề ra mời ông mối bước lên nhà, chàng trai khi đó vẫn đứng dưới chân cầu thang nhà sàn. Đám cưới sẽ diễn ra hay không, tất thảy tùy thuộc vào tài thuyết phục của ông mối, khi nhà gái đồng ý thì người con trai bắt đầu lo sắm đủ lễ vật: năm mươi ngàn đồng (xưa là năm đồng bạc), hai con lợn, hai con gà, một con dao phay, một con dao phát rừng, một đôi bát tô, mười bát nhỏ, một cái nồi đồng và một cái nồi gang. Mọi thứ sính lễ phải có đôi, có đũa biểu thị lòng thủy chung, son sắt, tựa lời nguyện thề làm người chồng tốt của đàn ông Mã Liềng.

Ngày cưới chỉ được xác định khi nhà trai đã chuẩn bị đủ lễ vật, hôm đó ông mối sẽ dắt chú rể, bố mẹ và người thân mang theo lễ vật đến đặt ở gian thờ cúng của ngôi nhà sàn. Chú rể lúc đó chưa được tham dự bất cứ nghi thức nào mà phải cùng cô dâu đứng khuất vào gian bếp. Khi đại diện nhà gái đồng ý nhận và lần lượt đặt tay lên từng lễ vật thì chú rể mới được phép dắt cô dâu ra mắt bà con hai họ. Khi ấy hai bên sẽ thỏa thuận ngày lành tháng tốt để tổ chức đám cưới cho đôi trai gái, thường thì họ sẽ sử dụng những ngày chẵn của bất cứ tháng nào trong năm với ý niệm cầu mong thuận lợi, hạnh phúc trăm năm cho đôi vợ chồng. Điều đáng nói ở đây, tộc người Mã Liềng ngày trước và cả bây giờ đời sống vẫn còn nghèo, quanh năm chật vật với cái ăn, cái mặc nên hiếm khi (nếu như không nói là chưa bao giờ) cùng một lúc đàn ông Mã Liềng sắm đủ lễ vật cưới vợ. Thế nên làm lễ bỏ của xong, người con trai xin bố mẹ bên cô gái cho phép đến ở rể. Đến nhà vợ, chú rể phải đảm đương việc gia đình và được bố mẹ vợ giao tài sản, ruộng đất để sinh sống, canh tác. Kể từ ngày đó, người chồng phải cày sâu cuốc bẫm, tích trữ hoa lợi và cả tiền bạc hòng sắm đủ lễ vật đợi ngày rước người vợ yêu quý của mình về.

Thời gian ở rể tùy vào giao ước của hai bên gia đình; nếu nhà vợ neo người hoặc sinh toàn con gái mà chú rể ưng thuận thì có thể ở rể cả đời nhưng lễ vật vẫn không được thiếu thứ gì. Bao đời nay, tục lệ này vẫn được duy trì để cho vừa lòng tổ tiên, bất chấp có những người đàn ông Mã Liềng xuống mồ rồi vẫn chưa cưới được vợ. 

Nguyễn Tiến Dũng


Ý kiến bạn đọc


(E-magazine) Kiến tạo kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Đắk Lắk không chỉ nằm trong khu vực có hệ sinh thái tự nhiên phong phú, đa dạng phù hợp cho phát triển nông nghiệp, mà còn là địa phương có đến 49/53 dân tộc thiểu số cùng sinh sống. Đây là lợi thế cạnh tranh rất lớn cho tỉnh trong xây dựng và phát triển Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), tạo dựng nền nông nghiệp giàu bản sắc, kiến tạo kinh tế vùng nông thôn vững mạnh, tạo cú hích nâng tầm giá trị cho nông sản địa phương vươn ra thị trường trong và ngoài nước.