Multimedia Đọc Báo in

Quả bầu khô trong đời sống của người Tây Nguyên

16:23, 24/10/2018
Mặc dù cuộc sống trong các buôn làng của người Tây Nguyên ngày nay đã có nhiều đổi thay, song những giá trị tinh thần từ những quả bầu khô vẫn còn nguyên. Qua đó thể hiện lối sống phóng khoáng, gần gũi với thiên nhiên của con người vùng đất đỏ bazan.

Trong một lần vào nhà người quen ở trong buôn Cuôr Đăng B, xã Cuôr Đăng (huyện Cư M’gar), tôi được tận mắt chứng kiến aduôn (bà) H’Linh đang hướng dẫn cho cháu gái là H’Nguyệt Ayun cách đồ xôi bằng quả bầu khô (hay còn gọi là “Kbin”) theo đúng cách truyền thống của người Êđê. Vừa cầm tay chỉ việc cho H’Nguyệt, aduôn H’Linh vừa tiết lộ “bí quyết” làm xôi chín đều có vị thơm ngon hấp dẫn. Bàn tay bà điêu luyện úp ngược quả bầu vào nồi đất xong dùng xơ mướp lót vào phần đáy rồi nhanh chóng bỏ phần gạo nếp đã trộn sẵn đậu đen vào. Như đọc được suy nghĩ của tôi và mấy đứa cháu, aduôn H’Linh giải thích, dùng xơ mướp để hơi nước bốc lên giúp nếp nhanh chín hơn.

Bà kể rằng: hình ảnh quả bầu gắn bó thân thương với  buôn làng từ xưa đến bây giờ. Thời bà còn nhỏ, đến thăm nhà ai trên kệ bếp đều bắt gặp hình ảnh những quả bầu hồ lô được treo chật giàn. Các vật dụng phục vụ đời sống hằng ngày từ chén bát, niêu đựng cơm đi rẫy, đồ xôi, đựng nước uống, cối giã, đựng hạt giống… đều được làm từ quả bầu! Cho đến tận bây giờ, nhiều gia đình đã thay thế các vật dụng bằng đồ inox, nhôm, men sứ…  nhưng hình ảnh quả bầu vẫn gắn bó với đời sống và con người nơi đây như giá trị văn hóa vốn có của nó.

Trên giàn bếp của người Êđê không thể thiếu những quả bầu khô.
Trên giàn bếp của người Êđê không thể thiếu những quả bầu khô.

Bầu thuộc nhà họ bí nên rất dễ trồng, chỉ cần xuống giống nơi có đủ độ ẩm sẽ sinh trưởng phát triển tốt, đơm hoa kết trái sau 3 tháng. Như nhiều giống cây trái khác, bầu cũng chia làm nhiều loại: bầu hồ lô, bầu dài (hình trụ). Thường người Êđê, M’nông, J’rai chọn trồng giống bầu hồ lô bởi những tiện ích mà nó đem lại. Đặc biệt, khi thu hái họ rất kiêng hái quả bầu đầu tiên trong giàn mà đem cột lại để đánh dấu dành làm giống cho mùa sau. Còn lại, các aduôn, amí (các bà, các mẹ) thường chọn những quả bầu to đẹp, cân đối, đủ độ già, da láng không bị sâu bọ hút chích về phơi khô để không bị dễ vỡ, để được lâu hơn. Tiếp đó, họ sẽ đục lỗ ở phần cuống rồi trút hết hạt ra. Tùy vào mục đích sử dụng mà quả bầu được bà con lựa chọn kích thước, kiểu dáng để chế tác các loại vật dụng khác nhau. 

Aduôn H’Linh chia sẻ: Để bầu có màu đen bóng bắt mắt như chúng ta vẫn thường thấy, người ta đem chúng ngâm dưới bùn cỡ 1 tháng, sau đó đem về rửa sạch treo lên giàn bếp vài tuần. Và tiếp tục đem ra ngâm thêm một lần nữa thì quả bầu mới lên màu đẹp. Khi lấy lên chỉ cần súc lại ruột bằng cát nhiều lần cho thật sạch để rửa trôi hết phần xơ còn sót lại. Sau khi đã xong các công đoạn người ta bắt đầu mang bầu đi đựng nước, số còn lại được treo tiếp trên bếp để sử dụng dần trong gia đình.

Chị H’Nguyệt Ayun (xã Cuôr Đăng, huyện Cư M’gar) đồ xôi bằng quả bầu.
Chị H’Nguyệt Ayun (xã Cuôr Đăng, huyện Cư M’gar) đồ xôi bằng quả bầu.

Bên cạnh những tiện ích hằng ngày, quả bầu còn là vật dụng không thể thiếu trong các nghi lễ quan trọng của đồng bào Tây Nguyên như lễ cúng bến nước, lễ cầu mưa, cầu mùa, cúng sức khỏe… Già Aê H’Nhap ở buôn K’Nia 4, xã Ea Bar (huyện Buôn Đôn) cho biết: “Quả bầu khô gắn bó với đời sống tinh thần của người Êđê, M’nông, J’rai từ khi khai thiên lập địa, bởi thế mà khi làm lễ cúng, già làng thường dùng trái bầu để đựng rượu hoặc tiết các con vật hiến sinh”.

Ngày nay, nhiều gia đình người Êđê nói riêng và cộng đồng người Tây Nguyên nói chung vẫn gìn giữ hạt giống bầu hồ lô từ thế hệ này sang thế hệ khác như một hạt giống quý nhằm nhắc nhở và giáo dục con cháu nhớ về nguồn cội của dân tộc mình. Quả bầu đã trở thành món quà biếu khách thập phương đặt chân đến với vùng Tây Nguyên đầy nắng gió để thể hiện sự trân quý của con người nơi đây.

Djuang Niê


Ý kiến bạn đọc


(E-magazine) Kiến tạo kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Đắk Lắk không chỉ nằm trong khu vực có hệ sinh thái tự nhiên phong phú, đa dạng phù hợp cho phát triển nông nghiệp, mà còn là địa phương có đến 49/53 dân tộc thiểu số cùng sinh sống. Đây là lợi thế cạnh tranh rất lớn cho tỉnh trong xây dựng và phát triển Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), tạo dựng nền nông nghiệp giàu bản sắc, kiến tạo kinh tế vùng nông thôn vững mạnh, tạo cú hích nâng tầm giá trị cho nông sản địa phương vươn ra thị trường trong và ngoài nước.