Độc đáo nghề đan nón của dân tộc Ca Dong
Do sự thay đổi của tự nhiên và lối sống, chiếc nón đội đầu đã dần vắng bóng trong đời sống người Ca Dong, nhưng tại xã vùng cao Trà Bui, huyện Bắc Trà My (tỉnh Quảng Nam) vẫn còn gìn giữ nghề đan nón thủ công truyền thống mà cha ông truyền lại.
Nghề đan nón thủ công truyền thống của người Ca Dong đã có từ rất lâu. Ngày xưa, mỗi khi đi ra ngoài thì người Ca Dong cả đàn ông, phụ nữ, thanh niên, thiếu nữ và những em bé đều đội chiếc nón lá dứa, nón cây giang do người Ca Dong làm ra để phòng khi trời mưa nắng.
Để hoàn thành một chiếc nón, đầu tiên là đàn ông Ca Dong vào rừng tìm lá dứa rừng, thân cây giang và cả cây sa ri. Lá dứa được chọn là những lá dứa già, to, không bị rách được chặt đem về, phơi khô cho tới khi ngả sang màu nâu. Thân cây giang cũng phải già, thẳng, không bị kiến đục lỗ, không bị cụt ngọn được chặt về, chẻ ra thành nhiều mảnh để trên giàn bếp cho thật khô. Cây sa ri sau khi chặt đem về thì dùng rựa đập lấy vỏ để làm sợi.
Khi giang đã khô, người thợ dùng rựa chẻ lấy toàn cật của giang. Mỗi cọng nan phải chẻ cho đều nhau. Kỹ năng và kỹ thuật của người thợ là ở khâu chẻ và vót nan không chỉ quyết định chiếc nón đẹp hay xấu mà còn bảo đảm độ bền của chiếc nón đó nữa. Nếu chẻ nan mỏng quá, thì khi níu múi ở vành ngoài cùng của chiếc nón sẽ tạo cho nón cong vẹo. Còn nếu chẻ nan hơi dày và vót nan không đều, khi níu múi của vành sẽ làm cho nón cứng.
Công đoạn lột vỏ của cây sa ri để phục vụ cho nghề đan nón. |
Nón của người Ca Dong có các loại: đan theo kiểu nan long mốt, nan long hai - đây là nón được đan hoàn toàn bằng sợi nan của cây giang và loại nón đan theo kiểu hình lục giác, lợp lá dứa rừng. Chiếc nón được đan theo nhu cầu, mục đích sử dụng. Muốn đan loại nón nào, người đan sẽ chẻ nan, chọn lá cho phù hợp với kiểu dáng của nón đó. Ngày trước, tùy thuộc vào từng lứa tuổi và sở thích mà hai loại nón có kích thước cũng khác nhau.
Với người Ca Dong, nón đan theo kiểu hình lục giác thì đơn giản, còn đan nón theo tét mơi (nan long mốt) và tét pái (nan long hai) thì rất tốn công. Bởi nón được đan hoàn toàn là sợi giang. Vì vậy, dù đan theo kiểu gì thì công đoạn gầy nan cho hai loại nón này rất quan trọng. Khi gầy nan, phải chọn chính tâm, nghĩa là những chiếc nan đầu tiên khi gầy phải chính giữa, thì khi đan không bị lỗi mà còn tạo nên một liên kết nan liền nhau. Khi đan bề mặt của nón bao giờ cũng phải khít, cần tránh để lộ những điểm hở để khi gặp phải trời mưa thì nước sẽ không thấm ướt. Chỉ cần nhìn vào múi nan của vành, người Ca Dong có thể biết được tay nghề của người đan nón.
Công đoạn cuối cùng là tạo vòng chóp và làm dây quai nón. Chiều cao khoảng 3 cm, chiều dài khoảng 50 cm, được kết nối thành một vòng tròn tại tâm của nón có đường kính khoảng 15 cm và được níu bởi hai cọng cây giang dáng hình chữ thập, để khi đội và thắt quai thì nón không bị xê dịch. Dây nón cũng được làm từ sợi của cây sari, dẻo và rất bền. Nón đan theo kiểu pót trô, có thể sử dụng từ 5 - 7 năm. Khi hỏng thì được lợp lại lá dứa rừng khác. Còn nón đan theo kiểu nan tét mơi, tét pái thì bền hơn, có thể dùng từ 13 - 15 năm mới hỏng.
Chiếc nón truyền thống gắn bó với người Ca Dong trong cuộc sống hằng ngày trên xã vùng cao Trà Bui, huyện Bắc Trà My (tỉnh Quảng Nam). |
Bây giờ ở các chợ của huyện vùng cao Bắc Trà My - nơi sinh sống lâu đời của đồng bào dân tộc Ca Dong, có bày nhiều loại mũ, nón thông dụng. Tuy nhiên, chiếc nón truyền thống được người Ca Dong đội mỗi khi lên rẫy, vào rừng săn bắn, hái nấm, bẻ măng, xuống suối bắt tôm, cá… hay dịp làng vào mùa lễ hội vẫn là vật không thể thiếu trong văn hóa cũng như đời sống hằng ngày của đồng bào dân tộc Ca Dong nơi đây. Chính vì vậy, vẫn còn nhiều người Ca Dong gắn bó với nghề đan nón thủ công để trao đổi lấy lúa, gạo, heo, gà, dụng cụ làm nương rẫy…
Nguyễn Văn Sơn
Ý kiến bạn đọc