Multimedia Đọc Báo in

Để giáo dục và đào tạo bứt phá trong bối cảnh chuyển đổi số

06:48, 28/09/2025

Chuyển đổi số trong giáo dục là quá trình tích hợp công nghệ kỹ thuật số và internet vào hệ thống giáo dục nhằm cải thiện chất lượng giảng dạy, học tập và quản lý.

Điều này bao gồm việc cập nhật phương pháp giảng dạy, sử dụng các thiết bị hỗ trợ học tập tiên tiến và nâng cao trải nghiệm học tập của học sinh, sinh viên. Cùng lắng nghe ý kiến của các chuyên gia về vận hội của giáo dục trong thời đại công nghệ số.

♦ Tiến sĩ Trần Thanh Long, Giám đốc Học viện Ngân hàng - Phân viện Phú Yên: Vận hội của giáo dục trong bối cảnh chuyển đổi số là rất lớn

Chuyển đổi số (CĐS) trong giáo dục không còn là khẩu hiệu, đó là một cuộc tái cấu trúc toàn diện cách chúng ta hoạch định, tổ chức và đánh giá hoạt động dạy và học. Nhìn chung, sau cú hích từ giai đoạn học trực tuyến thời COVID-19, nhiều địa phương đã có nền tảng quản trị học tập (LMS), số hóa học liệu và thí điểm đánh giá trên môi trường số. Có thể nói các trường học trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk hiện nay đang đứng trước nhiều cơ hội với CĐS. Đó là thu hẹp khoảng cách vùng miền bằng công nghệ. Nội dung số, lớp học kết hợp (blended), MOOC, micro-credential giúp sinh viên tiếp cận tri thức mới, giảng viên quốc tế mà không bị rào cản địa lý. Khung chính sách cũng đã mở đường cho việc thừa nhận học liệu số, chuẩn dữ liệu và liên thông. Doanh nghiệp địa phương, hệ sinh thái nông nghiệp - dịch vụ - du lịch của Tây Nguyên có nhiều bài toán dữ liệu thực tiễn để trường xây dựng học phần trải nghiệm, phòng thí nghiệm sống (living lab) và dự án tốt nghiệp gắn với CĐS địa phương.

Để bắt nhịp CĐS, các trường đại học cần lập chiến lược CĐS từ 3 - 5 năm. Trong đó xác định rõ hạ tầng, nền tảng (LMS, kho học liệu mở, thư viện số); học phần kết hợp, micro-credential liên thông; dữ liệu và phân tích học tập; bảo mật, an toàn và tiêu chí đầu ra số (digital outcomes) của sinh viên. Ngoài ra, các trường cũng cần phải chuẩn hóa dữ liệu đào tạo theo mô hình “một nguồn sự thật” (single source of truth): mã chương trình, học phần, chuẩn đầu ra, minh chứng, dữ liệu đánh giá, việc làm, để phục vụ kiểm định và ra quyết định dựa trên dữ liệu. Các trường cũng nên đầu tư năng lực số cho giảng viên, sinh viên theo chuẩn năng lực số sư phạm; thiết kế học phần “AI cho mọi ngành”, thực hành đạo đức học thuật, chống gian lận số và kỹ năng làm việc cùng AI. Các trường cũng phải gắn kết doanh nghiệp địa phương để đồng phát triển học phần dự án, thực tập số và nền tảng việc làm; ưu tiên bài toán dữ liệu nông nghiệp, logistics, du lịch thông minh của Tây Nguyên; đồng thời bảo đảm tiếp cận công bằng quỹ thiết bị, gói dữ liệu 4G/5G học tập, điểm học tập số ở ký túc xá, thư viện, phường, xã.

Vận hội của giáo dục trong bối cảnh CĐS là rất lớn, mở rộng cơ hội học tập chất lượng, cá nhân hóa, minh bạch hóa chất lượng và kết nối mạnh mẽ với thị trường lao động. Nhưng để “chuyển hóa cơ hội thành năng lực”, các trường trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk cần một chiến lược CĐS có ưu tiên rõ ràng, đo lường được và gắn chặt với nhu cầu phát triển địa phương, doanh nghiệp và người học.

♦ PGS. TS Tống Xuân Tám, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh: Phát huy hiệu quả trí tuệ nhân tạo (AI) trong trường học

Để phát huy hiệu quả của AI trong trường học, nhà trường và giáo viên đều đóng vai trò then chốt và cần có sự phối hợp đồng bộ. Nhà trường cần xây dựng tầm nhìn và chiến lược rõ ràng: để cá nhân hóa lộ trình học tập, tự động hóa công việc hành chính, hỗ trợ học sinh có nhu cầu đặc biệt, hay nâng cao trải nghiệm học tập nói chung; lãnh đạo nhà trường cần xây dựng một lộ trình triển khai AI bài bản từ giai đoạn thử nghiệm đến áp dụng rộng rãi, bao gồm cả việc dự trù ngân sách và nguồn lực. Cùng với đó là đầu tư vào hạ tầng cơ sở công nghệ để bảo đảm hệ thống mạng internet tốc độ cao, ổn định và an toàn; trang bị các thiết bị cần thiết (máy tính, máy tính bảng và các phần mềm, nền tảng AI) phù hợp với mục tiêu giáo dục đã đề ra.

Khi có nền tảng thì tổ chức đào tạo và phát triển chuyên môn cho giáo viên thông qua các buổi hội thảo, khóa tập huấn để giáo viên hiểu rõ về AI, sử dụng các công cụ AI một cách hiệu quả và có đạo đức; tạo ra cộng đồng học tập chuyên nghiệp để giáo viên có thể chia sẻ kinh nghiệm, thảo luận về những thách thức và giải pháp khi tích hợp AI vào giảng dạy, xây dựng chính sách về dữ liệu. Hợp tác với phụ huynh và cộng đồng để giới thiệu, nói chuyện về lợi ích và những lưu ý khi nhà trường áp dụng AI; khuyến khích sự tham gia của cộng đồng, các chuyên gia công nghệ để cùng xây dựng môi trường học tập tiên tiến.

Giáo viên cần chủ động học hỏi và nâng cao năng lực số; tích hợp AI một cách sáng tạo vào bài giảng…; đồng thời hướng dẫn học sinh kỹ năng cần thiết cho kỷ nguyên số. Đó là dạy học sinh cách sử dụng các công cụ AI một cách hiệu quả và có trách nhiệm; rèn luyện cho học sinh tư duy phản biện để biết cách đánh giá, kiểm chứng thông tin do AI cung cấp, thay vì phụ thuộc quá mức vào AI; giáo dục về đạo đức AI, quyền riêng tư và an toàn trên không gian mạng. Giáo viên cần khơi dậy sự tò mò, sáng tạo, phát triển các kỹ năng mềm như giao tiếp, hợp tác, giải quyết vấn đề cho học sinh - những kỹ năng mà máy móc khó có thể thay thế…

♦ Thạc sĩ Võ Đình Thiên, giáo viên Toán Tin, Trường THPT Trần Suyền: Nên bắt đầu từ việc nhỏ nhất

Chương trình CĐS quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, GD-ĐT là một trong những lĩnh vực được ưu tiên. Thực hiện quyết định này, Bộ GD-ĐT đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn, chỉ đạo cơ sở giáo dục thực hiện nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông tin, CĐS. Trong đó, Trường THPT Trần Suyền thời gian qua luôn chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện các nhiệm vụ và bước đầu đạt được nhiều hiệu quả tích cực.

Tôi nghĩ rằng, CĐS trong giáo dục không phải điều gì cao siêu mà nên bắt đầu từ những điều giản dị, nhỏ nhất gắn với việc làm thường nhật của giáo viên như: Soạn giáo án điện tử, chia sẻ và khai thác các bài giảng điện tử… Song song đó, giáo viên ứng dụng công nghệ thông tin vào các tiết dạy thông qua việc sưu tầm, lồng ghép tranh ảnh, hoạt hình nhằm tăng tính sinh động, hấp dẫn cho bài giảng. Qua đó, học sinh hứng thú với bài học hơn, chăm chỉ đến trường và có động lực trong học tập; chất lượng giáo dục chuyển biến rõ rệt. Điều này đã dần thay đổi phương pháp giảng dạy từ truyền thống sang tích cực, giúp người dạy và người học phát huy khả năng tư duy, sáng tạo, sự chủ động và đạt hiệu quả.

Không chỉ nâng cao chất lượng giáo dục, CĐS còn tiết kiệm thời gian, nhà giáo có thêm thời gian cho chuyên môn, sát sao học sinh hơn. CĐS trong giáo dục không chỉ là việc áp dụng công nghệ vào giảng dạy mà còn là một cuộc cách mạng trong cách chúng ta học, dạy và quản lý giáo dục. Nó mở ra những cơ hội chưa từng có để nâng cao chất lượng giáo dục, cá nhân hóa trải nghiệm học tập và tiếp cận tri thức rộng khắp.

Trung Hiếu - Thanh Hường - Văn Tài (thực hiện)


Ý kiến bạn đọc