Những “túi khôn” của buôn làng
Làm báo ở Tây Nguyên, ngoài không gian văn hóa đại ngàn, điều làm tôi nhớ nhất chính là những cuộc tiếp xúc với các vị “hiền nhân” của rừng.
Đi đến đâu, dù ở buôn gần hay làng xa, dù ở tộc người nào tôi cũng được gặp họ, những nhà thông thái giữa sắc xanh rừng già. Họ như những “túi khôn” của buôn làng và đang cố gắng níu giữ những gì còn lại trong vốn văn hóa cổ truyền tộc người bằng tất cả sức lực và tâm huyết của mình…
1. Làng ở Tây Nguyên (bon trong tiếng Cơ Ho, plei trong tiếng Chu Ru, boom trong tiếng M’nông, buôn trong tiếng Êđê, plai trong tiếng J’rai, veil trong tiếng Cơ Tu…) là một đơn vị cơ bản trong xã hội cổ truyền và còn lưu dấu đậm nét cho đến ngày nay.
Người ta thường nói, người Tây Nguyên có tính cộng đồng rất cao thì tính cộng đồng đó là tính cộng đồng làng, thậm chí “tính làng” còn sâu đậm và cụ thể hơn cả ý thức tộc người. Làng Tây Nguyên từng là một thiết chế xã hội bền vững và quy củ.
Làng Tây Nguyên được điều hành bằng một hội đồng già làng. Già làng là những người hiền minh nhất của làng, những người am hiểu rừng núi, đất đai, phong tục tập quán, giàu kinh nghiệm sản xuất, kinh nghiệm sống, giỏi giang trong đối ngoại, là người có đức độ cao được dân làng bầu lên. Hội đồng già làng quản lý làng theo một hệ thống luật pháp đặc biệt: luật tục.
Đó là những điều luật được cả cộng đồng công nhận và tuân thủ. Nhưng ở miền cực Tây của Tổ quốc, những người được cho là hiền minh không chỉ là những vị già làng. Hơn 30 năm làm báo ở Tây Nguyên, bước chân tôi đã từng rảo qua biết bao buôn làng, ngoài không gian đại ngàn, điều làm tôi nhớ nhất chính là những cuộc tiếp xúc với các vị hiền minh của rừng.
Đi đến đâu, dù ở buôn gần hay ở làng xa, dù ở tộc Cơ Ho, Mạ, S’tiêng, Chu Ru hay Êđê, Ba Na, J’rai… tôi cũng được gặp họ. Họ như những “túi khôn” của buôn làng. Họ giỏi giang mọi việc và có những cách hành xử làm người đối diện ngạc nhiên đến sửng sốt.
![]() |
Già làng - nghệ nhân Tây Nguyên. |
Lần ấy, về buôn người Mạ ở Lộc Bắc (Bảo Lâm, Lâm Đồng), trong ngôi nhà chứa đầy chiêng chóe cổ của già làng K’Noi, nhìn vật gì tôi cũng mê mẩn, trong đó tôi rất thích con dao nhỏ lưỡi sắc và có chiếc cán bằng sừng trâu được chạm trổ rất tinh xảo. Thích quá, tôi cứ hỏi mua, dù hết bao nhiêu tiền. Song, hỏi bao nhiêu lần già cũng đều cười và không trả lời. Hỏi thêm nữa, già trở nên khó chịu.
Trước khi chia tay, khi tôi không còn dám hỏi mua chiếc dao quý ấy nữa thì già K’Noi cầm con dao đặt vào tay tôi và nói: “Người Mạ chúng tao không bán vật quý mà chỉ tặng cho người mình quý. Tao quý mày, tặng mày!”. Lời nói ấy, hành vi ấy của người già Mạ, người cựu xã đội trưởng thời kháng chiến chống Mỹ đã lưu lại trong tôi một ấn tượng khó phai. Bao năm qua, tôi đã trân trọng giữ gìn con dao ấy như một báu vật, không chỉ vì con dao quý mà còn vì lối ứng xử tuyệt vời của người già tộc Mạ, người mà từ đó về sau tôi coi như một trượng phu sống giữa rừng già…
Với tôi, những cuộc chuyện trò với các già làng, những người già Tây Nguyên luôn mang đến cảm giác an yên và sự thú vị. Cũng như già K’Noi ở buôn làng người Mạ, ở plei của người Chu Ru, tôi gặp ông Ya Loan, người giàu có và giỏi giang nhất ở vùng Tu Tra. Ở buôn Ka Ming, tôi gặp cựu chủ nhiệm hợp tác xã K’sét Tăm Bô và thầy giáo dạy tiếng Cơ Ho tên là K’Brịt.
Ở vùng xã Lát tôi gặp nhạc sĩ - già làng Krazan Plin và người đàn bà đánh chiêng tên là Chil Ka. Ở buôn Sa Luk của người M’nông Gar bên dòng Krông Nô, tôi gặp già Ywan R’tung, người đã cùng nhà dân tộc học G.Condominas phát hiện ra bộ đàn đá tiền sử… Mỗi người trong họ với sự thông tuệ, với cách hành xử mang đậm tố chất văn hóa rừng đã cho tôi giàu có thêm hành trang tri thức của mình. Người thì giải nghĩa giúp một nét hoa văn. Người phân tích một câu chuyện cổ tích. Người đọc cho nghe đôi câu luật tục. Người hát vài điệu dân ca. Người dạy cách cầm cây ná, cầm cây xà gạc khi vạch lối vào rừng. Người chỉ cho cách tìm chiếc lá đắp lên vết thương khi bị nứa cắt, muỗi, vắt cắn. Chỉ là vậy thôi, nhưng với tôi, họ là những nhà thông thái. Tôi thấy mình mang ơn và mắc nợ tấm chân tình của họ.
Những bậc hiền minh ấy ít dạy bằng lời nói, họ truyền kinh nghiệm và tri thức sống cho người khác bằng chính những hành vi ứng xử linh hoạt và giàu chất nhân văn của mình…
2. Bây giờ về thăm làng buôn, những người già thường nói với tôi hai chuyện: chuyện quê hương đổi mới, đồng bào giàu có ấm no hơn xưa và điều các bậc “hiền nhân” lo lắng nhất là vốn văn hóa truyền thống từ thuở tổ tiên, ông bà vun trồng xây đắp đang từng ngày phai nhạt, hao hụt dần.
Già làng Ywan R’tung thở dài: “Buôn làng giờ khá giả nhưng mà buồn lắm! Ít khi được ngồi cùng nhau uống rượu cần hát kể Ot Ndrong, cùng đánh cái chiêng, thổi cái khèn bầu. Rừng không còn, nhà dài không còn, bếp lửa cũng không còn. Con cháu giờ lo làm ăn, ít nhớ chuyện xưa của ông bà…”. Còn già làng Ha Đời, người Cơ Ho ở xã Đạ Sa (Lạc Dương, Lâm Đồng) thì than thở: “Mình sống hơn tám mươi mùa rẫy ở ngay buôn làng mình, ít đi đâu khỏi buôn mà thấy nhớ cái ngày xưa ở nơi này quá!”. Già K’Điệp ở Tam Bố (Di Linh, Lâm Đồng) lo lắng: “Lớp trẻ bây giờ lo làm kinh tế cho bằng chị bằng em, ít quan tâm tới văn hóa. Nhiều cháu không thể giao tiếp tiếng Cơ Ho; dân ca, âm nhạc thì càng ít cháu biết”.
![]() |
Người già - “túi khôn” của buôn làng. |
Tôi về vùng Đồng Đò của người Cơ Ho Srê, một tộc người từng giỏi nghề trồng lúa. Già K’Brịt chỉ biết hồi tưởng về ngày xưa, cái thời “trồng lúa”, buôn làng có hẳn một quy trình nghi lễ theo từng giai đoạn sinh trưởng của cây lúa: lễ cầu mưa trước khi xuống giống; lễ mừng gieo sạ (Nhô sih srê), lễ mừng rửa chân trâu (Nhô rào jơng rơpu); khi lúa trổ đòng lại cúng lễ Nhô wèr cầu cho lúa dày bông; đến ngày lúa lên bông thì lại có lễ Nhô lir bờkao. Lễ Nhô lềrbong uống mừng mùa vụ kết thúc, đó cũng là lúc người Cơ Ho Srê đón mừng năm mới. Những lễ hội “ăn năm uống tháng” và những nét bản sắc văn hóa tộc người đang từng ngày đi vào quên lãng, chỉ tồn tại bằng niềm hoài tưởng trong ký ức của những người già…
Người già Tây Nguyên buồn lo vì ký ức tộc người ngày một hanh hao là phải. Tôi đã đi, đã đến và thấy dù ở vùng người Êđê, Ba Na, J’rai, Chu Ru, Cơ Ho, S’tiêng hay Mạ… thì hình ảnh nhạt nhòa văn hóa cổ đều hiện ra rõ nét. Sự mất dần căn cốt núi rừng thể hiện từ văn hóa vật thể đến phi vật thể. Ngày cũ xa rồi. Cái ngày tôi muốn nhắc đến là ký ức về những năm tháng bản sắc Tây Nguyên còn nhiều hoang dã, đậm đặc sắc màu, huyền bí và hấp dẫn. Cái thời mà Tây Nguyên như một nơi chốn mà các nhà dân tộc học trong và ngoài nước coi là vùng đất hứa của những khám phá, kiếm tìm. Sự mê hoặc bởi những khảo cứu, những phát hiện khảo cổ và dân tộc học từ nơi này đưa ra cho thế giới một kho tàng lạ lẫm. Tây Nguyên từng như một hình mẫu bản sắc làm cho người ta choáng ngợp và đôi lúc phải lý giải bằng những lý thuyết mang tính huyền bí…
* * *
Những người già Tây Nguyên không chỉ buồn lo mà họ đang dành hết tâm huyết và sức lực cuối cùng của mình để cố gắng níu giữ những gì còn lại trong kho tàng tinh hoa truyền thống tổ tiên. Tôi đã thấy già Ya Loan ngồi giữa sàn nhà để tỉ mẩn dò từng chữ cho việc soạn bộ giáo trình dạy tiếng Chu Ru. Tôi đã thấy già K’Diệp ở buôn B’Đăng - Lộc Bắc hướng dẫn cháu con những “phép tắc ông bà” trong ngôi nhà dài phục dựng. Tôi đã thấy bước chân xuôi ngược của già Ha Đời đi vận động lớp trẻ bảo tồn vốn cổ. Trong giọng nói của già K’Điệp ở Tam Bố, Di Linh có chút ngậm ngùi: “Các cụ già đang dần đi hết rồi, còn lại những người như mình, mình không làm gương thì sau nói cho con cháu, cho buôn làng như thế nào đây!”.
Bằng tâm huyết, bằng suy nghĩ, bằng lời nói, bằng việc làm, những người già trong các tộc người thực sự là những “hiền nhân” giữa đại ngàn Tây Nguyên…
Uông Thái Biểu
Ý kiến bạn đọc