Chiến thắng Tây Nguyên tạo thế và lực giải phóng hoàn toàn miền Nam
Từ tháng 10/1974 đến tháng 1/1975, Bộ Chính trị đã tập trung thảo luận, đánh giá tình hình, bàn thảo kế hoạch giải phóng miền Nam. Thắng lợi Chiến dịch Đường 14 - Phước Long (13/12/1974 – 6/1/1975) là cơ sở để Bộ Chính trị hạ quyết tâm gấp rút chuẩn bị mọi mặt để giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976, và dự liệu “Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”.
Nhận thấy thế bố trí chiến lược của địch mạnh ở Trị - Thiên và Sài Gòn - Gia Định, yếu và sơ hở ở miền Trung - Tây Nguyên, Bộ Chính trị quyết định chọn Tây Nguyên – địa bàn mà các nhà chiến lược quân sự nhận định ai chiếm giữ được sẽ làm chủ miền Nam Đông Dương - làm hướng tiến công mở màn cho kế hoạch giải phóng miền Nam.
Trung tướng Hoàng Minh Thảo, Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên nhận định: “Tây Nguyên là chiến trường có dung lượng lớn, có điều kiện để tiến hành tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn. Quân địch ở đây lại yếu. Ta có thể thắng lớn và thắng nhanh. Giải phóng Tây Nguyên nhanh sẽ có điều kiện thuận lợi để tiến xuống đồng bằng ven biển miền Trung, chia cắt quân địch ở miền Nam Việt Nam ra làm đôi, tạo thời cơ chiến lược lớn để giành thắng lợi chiến lược lớn hơn”.
Chính quyền Sài Gòn đặt Tây Nguyên thuộc Quân khu 2 - Quân đoàn 2, với lực lượng đồn trú gồm Sư đoàn 23 bộ binh có 3 trung đoàn; 7 liên đoàn biệt động quân; 36 tiểu đoàn bảo an; 4 thiết đoàn xe tăng, thiết giáp; 8 tiểu đoàn, 7 đại đội, 25 trung đội pháo binh và Sư đoàn 6 không quân. Tuy vậy, phần lớn lực lượng địch tập trung ở Bắc Tây Nguyên, lấy khu vực thị xã Pleiku và Kon Tum làm hướng phòng ngự chủ yếu. Ở Nam Tây Nguyên, tổ chức phòng ngự của địch mỏng yếu hơn khi địch chỉ để Trung đoàn 53 của Sư đoàn 23 đóng ở Buôn Ma Thuột và Liên đoàn 24 biệt động quân ở Quảng Đức.
![]() |
Chiến thắng Tây Nguyên tạo thế và lực giải phóng hoàn toàn miền Nam. |
Để tiến hành chiến dịch, Bộ Tổng Tư lệnh đã huy động lực lượng gồm: 5 sư đoàn bộ binh (10, 320, 316, 968, 3) và 4 trung đoàn (25, 95B, 271, 95A Trung đoàn Đặc công 198 và 2 tiểu đoàn 14, 27); 2 trung đoàn pháo binh (40, 675); 3 trung đoàn phòng không (232, 234, 593); Trung đoàn Thiết giáp 273; 2 trung đoàn công binh (7, 575) và lực lượng vũ trang địa phương trên chiến trường Tây Nguyên.
Nhiệm vụ cụ thể của Chiến dịch Tây Nguyên được xác định rõ: Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch loại khỏi vòng chiến đấu từ 4 - 5 vạn tên, diệt từ 3 - 4 trung đoàn, liên đoàn bộ binh, thiết giáp, đánh thiệt hại nặng từ 1 - 2 sư đoàn chủ lực địch, diệt nhiều tiểu đoàn bảo an, nhiều trung đội dân vệ, làm tụt nhanh quân số của địch. Mở rộng hành lang chiến lược từ đường 14 qua Gia Nghĩa xuống đường 20 nối với miền Đông Nam Bộ và từ Tây Nguyên xuống 3 tỉnh Khu V.
Giải phóng nhân dân và phần lớn vùng đất ở Nam Pleiku và Cheo Reo, chung quanh Buôn Ma Thuột, đánh bại kế hoạch “bình định”, nống lấn và giải tỏa của địch. Tích cực phối hợp với mặt trận chống bình định ở đồng bằng. Diệt từ 3 - 4 tiểu khu, chi khu quân sự, từ 1 - 2 hai tỉnh lỵ...
Đánh phá giao thông và hậu cứ, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, làm cho tiềm lực kinh tế của địch giảm sút trầm trọng. Khi có thời cơ, thực hiện chia cắt hẳn các đường 14, 19, 21, trọng điểm là đường 19.
Phát triển đấu tranh chính trị trong các thị xã. Ra sức xây dựng cơ sở tự vệ mật và các tổ chức biệt động, diệt ác ôn đầu sỏ, tạo thế làm chủ ở cơ sở.
Xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, xây dựng vùng giải phóng, xây dựng các đường chiến lược, chiến dịch, hoàn thành mọi công tác chuẩn bị cho nhiệm vụ tiếp theo.
![]() |
Đại tướng Văn Tiến Dũng cùng Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên họp bàn phương án tác chiến. Ảnh tư liệu |
Ngày 21/1/1975, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh giao nhiệm vụ bổ sung cho Chiến dịch Tây Nguyên: giải phóng Buôn Ma Thuột là nhiệm vụ chủ yếu của chiến dịch. Để bảo đảm cho trận đột phá mở đầu Chiến dịch Tây Nguyên chắc thắng, Bộ Tổng tư lệnh và Bộ Chỉ huy Mặt trận Tây Nguyên tích cực tổ chức, chỉ đạo hoạt động nghi binh thu hút sự chú ý của địch về phía Bắc Tây Nguyên.
Ngày 4/3/1975, Chiến dịch Tây Nguyên bắt bắt đầu bằng hoạt động cắt đường số 19, đánh một số mục tiêu ở Pleiku để nghi binh, tạo thế chiến dịch. Ngày 10/3/1975, ta nổ súng tiến công, đánh điểm đột phá mở đầu vào Buôn Ma Thuột. Bằng cuộc tiến công hiệp đồng binh chủng, ta đã tiêu diệt Sở Chỉ huy Sư đoàn 23 và Sở Chỉ huy tiểu khu Đắk Lắk của quân đội Sài Gòn, chiếm tất cả các vị trí trong thị xã, tiêu diệt và bắt toàn bộ quân địch. Trận đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột là một trận then chốt quyết định, tạo ra đột biến về chiến dịch, dẫn đến đột biến về chiến lược, gây tác động dây chuyền, tạo thời cơ cho những trận then chốt tiếp theo, tạo nên thời cơ cho sự phát triển chiến dịch và cả chiến lược dẫn đến sự phá vỡ chiến lược của địch
Tiếp đó, ta đập tan cuộc phản kích của Quân đoàn 2 địch hòng tái chiếm Buôn Ma Thuột, diệt Trung đoàn 44 và 45 thuộc Sư đoàn 23. Đòn điểm huyệt và đánh bại cuộc phản kích của Sư đoàn 23 khiến địch càng hoảng loạn, đẩy chúng từ sai lầm về chiến dịch tới sai lầm lớn về chiến lược: rút bỏ Tây Nguyên theo đường số 7 về đồng bằng.
Phát huy thắng lợi, từ ngày 25/3 - 3/4/1975, Bộ Tư lệnh Chiến dịch lệnh các sư đoàn 320, 10, 968 phát triển xuống Duyên hải Trung Bộ, phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương giải phóng Quy Nhơn (31/3), Tuy Hòa (1/4), Nha Trang (2/4).
Ngày 3/4/1975, Chiến dịch Tây Nguyên kết thúc thắng lợi, tiêu diệt và làm tan rã Quân đoàn 2 thuộc Quân khu 2 quân đội Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 28.000 quân địch, thu và phá hủy 154 máy bay, 1.096 xe quân sự, 17.188 súng, pháo các loại; giải phóng 5 tỉnh Tây Nguyên (Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Phú Bổn, Quảng Đức) và 3 tỉnh Nam Trung Bộ (Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa), tạo ra thế chia cắt chiến lược rất hiểm, làm cho Quân khu 1 của địch bị cô lập, đồng thời tạo thế uy hiếp trực tiếp Sài Gòn từ phía Bắc.
![]() |
Đồng bào Tây Nguyên múa hát mừng chiến thắng. Ảnh tư liệu |
Thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên làm rung chuyển hệ thống chính quyền Sài Gòn, tạo ra sự thay đổi căn bản về so sánh lực lượng và thế chiến lược có lợi cho ta, tạo ra đột biến lớn trên chiến trường. Trước tình hình thắng lớn của ta ở Tây Nguyên, trong cuộc họp ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị đã bổ sung quyết tâm chiến lược: giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975, chuyển tiến công chiến lược ở Tây Nguyên phát triển thành tổng tiến công chiến lược.
Thắng lợi của đòn tiến công chiến lược Tây Nguyên là tạo ra bước ngoặt cho quá trình thực hiện kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam. Với thắng lợi này, ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiêu diệt một bộ phận lớn sinh lực địch, giải phóng địa bàn có ý nghĩa chiến lược, phá vỡ và cắt đôi thế bố trí chiến lược của địch, làm cho quân địch phải co cụm và bị động đối phó trên các chiến trường, mở ra thời cơ của cuộc tổng tiến công chiến lược.
Phối hợp với Chiến dịch Tây Nguyên, quân và dân ta tiến hành đòn tiến công chiến lược giải phóng Huế (26/3), Đà Nẵng (29/3), đập tan tập đoàn phòng ngự mạnh của quân đội Sài Gòn ở khu vực miền Trung, phá sản âm mưu co cụm chiến lược; tạo nên vùng hậu phương chiến lược hoàn chỉnh, đáp ứng kịp thời việc tăng cường lực lượng, bổ sung vật chất cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, làm thay đổi tương quan lực lượng giữa ta và địch trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước vào ngày 30/4/1975.
Đại tá, TS. Lê Thanh Bài
Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự
Ý kiến bạn đọc