Multimedia Đọc Báo in

Hoài niệm đẹp với “Chờ hương thả gió”

08:43, 24/06/2024

“Chờ hương thả gió” là tựa đề thi phẩm thứ ba của nhà thơ Hồ Sĩ Bình, do Nxb Hội Nhà văn ấn hành tháng 5/2024.

Nhìn lại một loạt tác phẩm bút ký, tản văn và đặc biệt những thi tập ra mắt gần đây của Hồ Sĩ Bình (“Mưa nắng lưng đèo”, “Ngày sinh của gió”), có thể nhận thấy gần như tác giả đã chọn “gió” làm cảm hứng và tâm điểm sáng tác, để đeo đuổi cuộc rong chơi phiêu bồng đầy cam go và cũng nhiều thi vị của mình.

Cụ thể hơn, như nhận định của Nhật Uyển Thư Cưu: “… sâu xa trong thơ anh là suy niệm về sự chuyển động. Gió là ẩn ngữ nói lên mọi sự chuyển động như đời sống vốn đang là. Thời gian và vạn hữu chuyển động trong nhịp điệu vô thường”. Giờ đây, một lần nữa, khi cầm tập thơ “Chờ hương thả gió” trên tay, hẳn nỗi háo hức chờ đợi đầu tiên của người đọc muốn chia sẻ cùng Hồ Sĩ Bình, là “hương” gì sẽ đến với gió?

Quê quán ở Quảng Trị, nhưng suốt thời trai trẻ Hồ Sĩ Bình đã bôn ba khắp mọi miền đất nước: Gia Nghĩa (Đắk Nông), Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk), Bàu Trúc (Phan Rang), sông Kôn (Bình Định), Sa Pa (Lào Cai), Mai Châu (Hòa Bình)… và dĩ nhiên không thể thiếu Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn. Có lẽ chính từ những nơi chốn ấy, anh đã tìm gặp, lưu giữ những chất liệu cho “Chờ hương thả gió”.

Ngay ở bài thơ đầu tiên, “Hà Nội kéo tôi đi”, tác giả hé lộ: “mơn man óng ả một màu thu Hà Nội/ không ai từng vẽ nổi lên tranh/ chợt nhớ mùi hương trái thị/ nắng vàng đã đưa”, hoặc: “vội vã lần nào cũng thế chia tay/ chỉ kịp mang theo/ một chút mùi hương nhẹ biếc”. Có lẽ tác giả đã không ít lần lan man qua những ngõ phố Hà Nội, lướt qua “những ô màu xám lạnh”, “những ngôi nhà cổ dưới bóng cây xanh”, “những món ngon hàng quán lao xao”…, nhưng chừng trong trái tim thi sĩ, mọi thứ vẫn in đậm trong ký ức trên trang sách xưa cũ, và mỗi lần chia tay, anh vẫn chỉ còn giữ lại “một chút hương mùa nhẹ biếc”.

Cứ như thế, như “Con ong đuối sức đi tìm mùi hương” (Bóng xuân), tác giả dẫn dắt người đọc đến nơi này qua nơi khác để cùng chia sẻ: “Hãy đốt lên một ngọn lửa ấm/ và một nhúm hương trầm để nghĩ về ngày sắp tới/ những hẹn hò giêng hai” (Chút lửa ấm mùa xuân). Những nơi chốn ấy, chúng ta sẽ gặp lại ký ức đẹp đẽ của quê nhà: “Người về nhặt lại hương cau/ có nghe lục lạc bên cầu quê hương” (Qua mấy nẻo sông), hoặc:  “Bông mướp vàng thả hương con ong mật/ chén rượu nồng tro trấu/ bánh tét bánh chưng/ mùi mồ hôi của cha và gió bấc mưa phùn/ môi em thơm mùi giêng non/ tóc mây thầm thì hương con gái” (Hương bùn đất đồng), để rồi khi chia tay lại nhắn nhủ: “Ngùi thương hoa bưởi hoa ngâu/ chờ hương thả gió mùa sau. Tôi về” (Tôi về)…

Quả nhiên, như một ám thị đã an bày, song hành cùng với “gió”, “hương” như là một chủ thể không thể rời xa nằm rải rác trong hơn  50 bài thơ. Càng đáng chú ý hơn, trong cái hương vị quê nhà da diết ấy, tác giả không quên giữ lại những hương kỷ niệm là báu vật dành cho riêng mình: “Đêm gọi tôi về thơm áo lụa/ áo đẫm vai người hương của khuya” (Thư tình gởi Nam Giao) hoặc: “Hương ơi trời cứ lâm thâm/ ngoài kia thuyền đã chở trăng đi rồi”; “Sơn quỳ lạc giữa mai sau/ ngồi với núi lại đẫm nhàu hương xa” (Hương ơi).

Xuyên suốt tập thơ “Chờ hương thả gió”, ấn tượng với riêng tôi còn là những câu thơ đậm dấu ấn thời trai trẻ của Hồ Sĩ Bình: có khi là cái thời trầm mặc, triền miên ngồi ở giảng đường dán mắt vào chồng sách cũ, giấy đã ố vàng (Gửi người bạn thích đọc ERICH MARIA REMARQUE), có khi là những ngày đầu bỡ ngỡ cầm viên phấn trắng đến với các em học sinh miền cao ở Tây Nguyên (Ngày ấy trên nương), có khi là nỗi ám ảnh khôn nguôi trên mỗi bước chân về một quê quán “bao lần trở lại/ trở lại bao lần/ cũng chỉ để mà đi…” (Mộng mị quanh đời).

Và một lần nữa, tôi lại nhớ đến lời cảm nhận chia sẻ của Nguyễn Thị Tịnh Thy: “Thơ Hồ Sĩ Bình là một niềm bi diễm – vẻ đẹp buồn – buồn bã mà sang trọng, cô đơn mà kiêu bạc. Đó là giọng thơ điềm tĩnh, trĩu nặng nội tâm và hoài niệm. Tất cả được chuyển tải qua lối cấu tứ rất phóng túng, phiêu dạt và tài hoa với những con chữ đậm mùi cổ tích và điển tích của một hồn thơ có nền tảng văn hóa và tri thức rất dày dặn”. 

Trần Trung Sáng 


Ý kiến bạn đọc


Xem thêm

(E-magazine) Kiến tạo kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Đắk Lắk không chỉ nằm trong khu vực có hệ sinh thái tự nhiên phong phú, đa dạng phù hợp cho phát triển nông nghiệp, mà còn là địa phương có đến 49/53 dân tộc thiểu số cùng sinh sống. Đây là lợi thế cạnh tranh rất lớn cho tỉnh trong xây dựng và phát triển Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), tạo dựng nền nông nghiệp giàu bản sắc, kiến tạo kinh tế vùng nông thôn vững mạnh, tạo cú hích nâng tầm giá trị cho nông sản địa phương vươn ra thị trường trong và ngoài nước.