Sống mà chiến đấu
Mỗi lần có dịp ngang qua căn nhà số 149 đường Sư Vạn Hạnh, TP. Pleiku (tỉnh Gia Lai), tôi lại nhớ ông Hoàng Văn Ngọc – người chiến sĩ cách mạng trung kiên. Trước ngưỡng cái chết, trước bao sóng gió cuộc đời, con người có số phận kỳ lạ này vẫn đứng vững với một khát vọng mãnh liệt: Sống mà chiến đấu…
Vào trận
Đèo Mang Yang tháng 8/1946. Một đại đội Giải phóng quân Nam tiến đang chặn đánh kịch liệt tiểu đoàn lính lê dương từ Pleiku xuống. Các chiến sĩ đầu trần, mặt sạm đen khói đạn nhấp nhô xung phong theo tiếng hô khản đặc của người chỉ huy…
Hoàng Văn Ngọc chỉ còn 5 viên đạn cho khẩu Mousqueton dài ngoằng. Trận đánh đang trong những giờ phút quyết liệt mà người tiếp đạn chưa thấy lên. Anh vừa bắn vừa ngoái lại phía sau lo lắng. Chợt anh thấy bên chân phải nhói đau. Khẩu súng trong tay nặng trĩu, anh khuỵu xuống…
Cơn mưa xối xả ập xuống khiến anh tỉnh lại. Nhìn ánh đèn xe quét loang loáng trên lộ, anh hiểu rằng bộ đội đã rút và địch làm chủ trận địa từ lâu. Anh mò mẫm sờ vào chỗ đau và bỗng rụt tay lại: Một vết phá không hình thù nhầy nhụa những thịt và máu. Anh chống tay thử đứng lên nhưng đã quỵ ngay xuống. Không thể đi được thì bằng cách nào cũng cố thoát xa con lộ, nếu không sáng ra chắc chắn sẽ bị bắt… Suy nghĩ một lát, anh quyết định bò theo hướng nước chảy, như vậy sẽ tới suối và có thể gặp người…
Trời càng lúc càng mưa lớn. Qua ánh chớp, nhìn vào vết thương anh rùng mình kinh hãi: Một đám vắt châu vào vết thương nhung nhúc. Anh đưa tay giật mấy con, một cảm giác đau đớn thót lên tận óc. “Kệ xác chúng, cứ hút no máu thì tự khắc nhả ra”, anh nghĩ thế và tiếp tục lết… Bỗng nhiên anh cảm giác như đang bơi trong không khí rồi không còn biết gì nữa…
![]() |
Ông Hoàng Văn Ngọc. |
Bình minh yếu ớt ló dạng. Hoàng Văn Ngọc nhận ra đêm qua mình đã bị rơi xuống hõm sâu của con suối cạn. Gắng sức trườn lên, anh bỗng ngây người: Cách chừng chục thước là một căn lều đang tỏa khói. Anh cố lết về hướng đó và cất tiếng gọi. Một người đàn ông Ba Na cầm chiếc nỏ lớn thò đầu ra cửa nhìn. Hoàng Văn Ngọc nói mình là người tản cư, bị thương nên lạc tới đây. Chợt nhớ trong túi còn 30 đồng bạc, anh móc ra đưa cho người đàn ông 15 đồng. Ông ta quay vào lều lấy cơm cho anh ăn. Ăn cơm, uống nước xong thì tỉnh táo hẳn, nhìn lên Quốc lộ 19, anh thấy lờ mờ những đám người gồng gánh, dắt díu nhau. Người dân đang chạy giặc về Bình Định, phải ra đó nhờ họ giúp tìm đường về với quân ta. Anh ngỏ lời nhờ người đàn ông cõng mình đi. Ông ta gật đầu…
Ba lần tự tử - ba lần quyết sống
Người đàn ông cõng Hoàng Văn Ngọc vào một căn nhà bên đường đầy những người nằm vạ vật. Anh vừa thở vừa nói mình cũng đi tản cư, không may bị thương nhờ giúp đỡ. Họ đưa mắt nhìn nhau, cuối cùng một người nói: “Anh là bộ đội, chúng tôi biết, nhưng thú thật hoàn cảnh chúng tôi giờ cũng chẳng cưu mang được. Anh hãy cởi bộ đồ trong người ra, chúng tôi sẽ cho quần áo mà thay, nếu không sẽ bị bắt ngay đấy!”.
Họ đưa cho anh bộ quần áo bà ba, lấy cơm cho anh ăn rồi lục tục lên đường. Trước khi đi họ chặt cho anh cây nạng và dặn: “Anh cứ theo đường cái mà đi, thế nào rồi cũng gặp bộ đội…”.
Mỗi bước đi là mỗi cơn đau dội lên buốt óc. Mặc, Hoàng Văn Ngọc cứ cắn chặt lấy ý nghĩ: “Chưa quỵ xuống là còn phải đi”. Ròng rã hai ngày, anh cứ đi trong trạng thái vô thức như thế… Sáng ngày thứ ba, thấy gần đường một túp lều có người ở, anh đâm bổ vào phều phào xin ăn. Túp lều ấy hóa ra là của người Ba Na bỏ hoang và đôi vợ chồng người tản cư đang tá túc. Không hỏi một lời, họ lấy cơm cho anh ăn rồi lấy rạ trải cho anh nằm… Anh mê man trong căn lều hai ngày. Đến ngày thứ ba tỉnh lại thì vết thương đã lên dòi thối khẳm… Vợ chồng người tản cư nhìn anh với cặp mắt âu sầu. Chốc sau người chồng lên tiếng: “Sáng mai chúng tôi sẽ ra đi, có muốn cũng chẳng cưu mang anh được. Thôi thì anh…” - “ Hãy tự liệu lấy” – anh đón lấy ý nghĩ người chồng. Nhìn lên vách lều thấy một mũi tên lớn đen sì, hỏi, người chồng nói đó là tên tẩm thuốc độc, người Ba Na dùng để săn thú lớn. “Mình sẽ dùng nó để kết liễu đời mình” - như tìm được một sự giải thoát tin cậy, anh thanh thản ngủ thiếp đi…
Hoàng Văn Ngọc tỉnh dậy vào lúc nửa đêm. Vợ chồng người tản cư đã ngủ say. Tập tễnh đến bên vách lấy mũi tên xuống, trước tiên anh chà mạnh vào vết thương rồi miết lên các chỗ xây xát trên người. Để chắc ăn, anh bẻ cật nứa cứa thêm mấy chỗ nữa. Xong việc, anh vứt mũi tên đi và lặng lẽ nằm chờ…
Cơn đau dữ dội dâng lên làm anh thức dậy. Mình chưa chết ư? Anh bàng hoàng nhìn quanh và cấu thử vào đùi… Vợ chồng người tản cư đã ra đi từ lúc nào. Ngẫm lại việc hôm qua anh thấy buồn cười. Nếu đúng là mũi tên thuốc độc thật thì anh đã là người thiên cổ. Nhưng không thế, có lẽ số phận còn cho anh được sống. Vậy thì tại sao anh không gắng sống? Anh cầm lấy cây nạng và quả quyết đứng lên, lại đi. Đi miên man trong vô thức…
Ngày hôm sau, nhận thấy xe quân Pháp đột nhiên chạy nhiều, Hoàng Văn Ngọc quyết định rời đường cái. Vết thương ngày càng nặng mùi. Những cơn đau xé ruột dội lên liên tiếp. Không thể đi nổi nữa, anh quyết định vứt cây nạng để bò. Đến ngày thứ ba, anh bị sa vào một bãi cây mắc cỡ. Anh cố sức thoát ra nhưng càng quẫy càng bị đám gai bùng nhùng quấn chặt. Lần này chắc hẳn là số phận đã an bài! Anh tuyệt vọng lần tìm sợi dây rừng, thắt nó thành một cái thòng lọng. Ngửa mặt lên bầu trời sũng nước, miệng lẩm bẩm “vĩnh biệt các đồng chí”. Anh ráng hết sức cầm hai đầu dây siết lại…
Hoàng Văn Ngọc tỉnh lại vào lúc nửa đêm...
Đúng ra cơn mưa xối xả đã giúp anh tỉnh lại. Anh sờ tay lên cổ, chiếc thòng lọng vẫn còn y nguyên. Thì ra do đã quá yếu, anh chỉ đủ sức làm mình nghẹt thở. Tháo chiếc thòng lọng ném vào bụi cỏ, nằm yên chút cho lại sức, một ý nghĩ bỗng nảy ra… Anh ôm đầu ráng sức lăn người trên đám gai mắc cỡ. Điều kỳ diệu đã không ngờ xảy đến. Anh lết vào một bụi cây nằm thở dốc. Bỗng anh thấy toàn thân ớn lạnh, mặt mày xây xẩm. Thì ra vì cố sức, máu từ vết thương chảy ra nhiều quá… Đến gần tối anh mới tỉnh lại nhưng hễ cựa mạnh một chút là máu tươi từ vết thương lại ộc ra. “Lần này thì không thể trông mong vào một phép nhiệm màu nào nữa”, anh quyết định lại làm một cái thòng lọng. “Bây giờ thì chỉ cần thắt vừa. Mình đã yếu lắm rồi, thế nào cũng được chết…”.
Vậy mà anh vẫn không chết!
Phải tìm cách khác. Nhắm hướng bờ suối, anh điên cuồng bò đi… Nhưng trước mắt anh bỗng hiện ra một rẫy bắp. Như sợ đó là ảo giác, anh vừa bò vừa thét lên. Dòng sữa ngọt lừ của những trái bắp non đã làm anh tỉnh lại. “Đã có làng ở cạnh đây rồi”. Gối đầu lên những thân bắp vừa bẻ xuống, anh thiếp đi trong ý nghĩ “hãy gắng sức thi gan cùng số phận…”
***
Đoạn cuối của con người có số phận kỳ lạ này tóm tắt như sau: Sau ba lần kề lưỡi hái tử thần, ông Hoàng Văn Ngọc đã gặp cứu nhân. Vết thương vừa đỡ, nghe nói dưới An Khê quân ta đang đánh nhau to, ông tìm xuống thì bị địch bắt. Chúng giam ông cho đến năm 1950 mới thả ra. Tiếp tục hoạt động cách mạng, lại bị bắt… Tính ra đời ông bốn lần bị địch bắt tù, hai lần kết nạp vào Đảng, 17 năm sau ngày giải phóng mới làm được chế độ thương binh… Trước bao sóng gió cuộc đời, ông vẫn vượt qua vì một khát vọng mãnh liệt: Sống mà chiến đấu!
Ngọc Tấn
Ý kiến bạn đọc