Cần có “cú hích” cho kinh tế trang trại
Lợi thế quỹ đất dồi dào đã tạo điều kiện cho nhiều nông hộ tích tụ ruộng đất để làm kinh tế trang trại (KTTT). Hằng năm mô hình kinh tế quan trọng này đã tạo ra khối lượng hàng hóa khá lớn, thúc đẩy phát triển công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến nông – lâm - thủy sản và dịch vụ…, góp phần làm thay đổi bộ mặt đời sống ở nông thôn. Tuy nhiên, để KTTT Dak Lak phát triển hơn nữa, cần có “cú hích” mạnh mẽ từ cơ chế, chính sách của tỉnh.
Cán bộ khuyến nông thực hiện việc chuyển giao KH-KT về ca cao cho các chủ trang trại. |
Đến nay, trên địa bàn tỉnh có 1.731 trang trại, với tổng diện tích đất gần 9.700 ha. Trong đó, số trang trại trồng trọt nông nghiệp chiếm phần lớn: 1.131 trang trại, kế tiếp là trang trại chăn nuôi, dịch vụ tổng hợp: 539 trang trại, và ít nhất là lâm nghiệp: 31 trang trại. Theo đánh giá của Sở NN-PTNT mặc dù số lượng trang trại nhiều (so với các tỉnh Tây Nguyên), nhưng thật sự chưa mạnh, do giá trị sản lượng hàng hóa và thu nhập của các trang trại chưa cao. Qua số liệu điều tra mới đây của Chi cục phát triển nông thôn (Sở NN-PTNT) cho thấy: trong số 1.703 trang trại được khảo sát, cập nhật (không tính 7 trang trại chưa báo cáo doanh thu do mới thành lập và 21 trang trại lâm nghiệp, trồng rừng chưa có doanh thu) thì tổng giá trị sản lượng hàng hóa, dịch vụ làm ra chỉ đạt hơn 845 tỷ đồng, chia bình quân thì chưa tới 500 triệu đồng/trang trại/năm (số liệu năm 2010). Còn tổng thu nhập chỉ ở con số hơn 269 tỷ đồng, bình quân khoảng gần 158 triệu đồng/ trang trại. Ông Nguyễn Văn Sinh - Phó giám đốc Sở NN-PTNT cho rằng, đây là con số khá thấp, nếu xét về hiệu quả khai thác, sản xuất trên đơn vị diện tích đất (mặt nước) được sử dụng.
Phân tích sâu hơn của Chi cục Phát triển nông thôn qua cuộc khảo sát, điều tra ở 1.703 trang trại nói trên, thì mức thu nhập cụ thể của nhóm trang trại trồng trọt nông nghiệp còn thấp hơn nữa (chỉ đạt từ 93,48–153,2 triệu đồng/trang trại). Trong khi đó nhóm trang trại này chiếm hơn 80% tổng số trang trại hiện có của tỉnh, từ đó cho thấy “nội lực” của khối kinh tế này chưa mạnh, hiệu quả xã hội mang lại chưa cao, chưa xứng đáng với tiềm năng vốn có. Để vực dậy khối kinh tế này, ông Võ Thuận - Chi cục phó Chi cục Phát triển nông thôn cho rằng: cần phải quy hoạch lại hệ thống, mô hình trang trại hiện nay, nhất là các trang trại trồng trọt nông nghiệp, không để tồn tại tình trạng tự phát với quy mô nhỏ lẻ, manh mún như hiện nay. Chú trọng nâng cao trình độ quản lý của các chủ trang trại và tay nghề của người lao động từ cơ sở để qua đó hình thành phương thức sản xuất, kinh doanh đa dạng và phù hợp, nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa, đáp ứng nhu cầu thị trường và tăng sức cạnh tranh trong từng nhóm hàng, ngành hàng được tạo ra từ các mô hình trang trại. Cùng với đó, cần có cơ chế, chính sách phù hợp, linh hoạt và kịp thời cho khối kinh tế này.
Vườn sầu riêng trong trang trại tổng hợp của ông Nguyễn Hữu Võ (xã Ea Nuôl, Buôn Đôn) trồng hơn 7 năm nay bằng nguồn vốn tự xoay xở của gia đình. |
Theo Sở NN-PTNT: vấn đề rà soát quỹ đất, xác minh nguồn gốc đất để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng (sổ đỏ) cho các trang trại hiện còn rất chậm. Tính đến nay, diện tích đất của các trang trại được cấp sổ đỏ mới được gần 5.600 ha, chiếm tỷ lệ hơn 57,5 %. Việc tiến hành cấp giấy chứng nhận trang trại cũng trong tình trạng tương tự, mới có 315/1.731 trang trại được công nhận. Sự chậm trễ đó đã ít nhiều ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các chủ trang trại như: không tiếp cận được nguồn vốn vay ưu đãi, các chính sách hỗ trợ về đào tạo quản lý, nguồn nhân lực, quản trị kinh doanh, xúc tiến thương mại và chuyển giao khoa học kỹ thuật.
Đặc biệt là về chính sách vay vốn, hầu hết các trang trại đều gặp khó khăn do lượng vốn vay từ các ngân hàng còn thấp so với nhu cầu. Ông Võ Thuận - Phó Chi cục Phát triển nông thôn cho biết: theo Nghị định 41/NĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc khuyến khích phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, một trang trại được cấp giấy chứng nhận được vay 500 triệu đồng/lượt để phục vụ sản xuất, kinh doanh… Song trên thực tế, con số này chỉ đáp ứng khoảng 12,9 % nhu cầu, còn lại chủ trang trại tư xoay xở. Điều đó đã bó buộc năng lực, quy mô sản xuất của các trang trại. Ông Nguyễn Hữu Võ - chủ trang trại kinh doanh tổng hợp ở xã Ea Nuôl - huyện Buôn Đôn trình bày: đã hơn ba năm qua, kể từ khi trang trại của ông được cấp giấy chứng nhận và được cấp sổ đỏ (hơn 7,3 ha), chưa bao giờ ông vay được ngân hàng một đồng nào, kể cả nguồn vốn vay theo Nghị định 41. Hơn thế, thủ tục vay vốn hết sức phức tạp, thời gian giải ngân chậm, tỷ lệ vốn cho vay thấp hơn rất nhiều so với giá trị tài sản thế chấp, nên ông Võ cũng như nhiều chủ trang trại khác không quan tâm đến nữa. Bên cạnh đó, chính sách tiêu thụ nông sản, công tác khuyến nông, khuyến lâm… cũng chưa theo sát thực tiễn, yêu cầu đặt ra, nên đã hạn chế rất nhiều đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của khối kinh tế này.
Ông Vũ Văn Đông - Phó giám đốc Sở NN-PTNT phụ trách kinh tế trang trại và HTX cho rằng: trước mắt cần phải nhanh chóng thực hiện một số bước đi cần thiết để tạo điều kiện cho KTTT phát triển mạnh mẽ hơn; đẩy mạnh việc rà soát và cấp sổ đỏ cho các trang trại để họ yên tâm đầu tư sản xuất; cho các chủ trang trại thuê đất với giá ưu đãi theo khung giá thấp nhất của địa phương. Có chính sách cụ thể khuyến khích việc dồn điền, đổi thửa, tích tụ ruộng đất để mở rộng qui mô, năng lực sản xuất, kinh doanh. Thành lập quỹ hỗ trợ phát triển kinh tế trang trại ở các địa phương. Hệ thống chi nhánh Ngân hàng thương mại, nhất là Ngân hàng Nông nghiệp - Phát triển nông thôn cần tăng cường bổ sung thêm số dư nợ cho các chủ trang trại khi tiếp cận vốn vay (trung và dài hạn). Tiếp tục thực hiện tốt Quyết định 80 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách khuyến khích tiêu thụ hàng hóa nông sản thông qua hợp đồng ký kết giữa doanh nghiệp với nông dân một cách có trách nhiệm hơn. Tăng cường sự hợp tác giữa các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp đứng chân trên địa bàn với các trang trại và giữa các trang trại với nhau, nhằm hình thành thị trường tiêu thụ hàng hóa nông sản trên địa bàn tỉnh theo hướng ổn định, rộng khắp toàn vùng, miền và cả nước. Có thể nói, giải quyết được những vấn đề trên, thì chắc chắn KTTT Dak Lak sẽ đóng góp một phần không nhỏ cho nền kinh tế địa phương, góp phần làm gia tăng số hộ giàu ở nông thôn, tạo công ăn, việc làm, tăng thu nhập cho người lao động tại chỗ, và quan trọng hơn là tạo động lực tích cực cho mục tiêu xây dựng đời sống nông thôn mới hiện nay.
Ý kiến bạn đọc