Multimedia Đọc Báo in

Ấm no nhờ rừng trồng

09:32, 28/10/2019

Ea Trang là xã vùng sâu, vùng xa (thuộc huyện M’Đrắk) có khí hậu khắc nghiệt, đất đai cằn cỗi, có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, song những năm gần đây đã dần “thay da đổi thịt” nhờ thực hiện chuyển đổi cây trồng kém hiệu quả sang trồng rừng sản xuất.

Dưới tán keo xanh mát, ông Y Han Niê (trưởng buôn M’O, xã Ea Trang) chia sẻ, trước đây, nguồn sống của gia đình ông và người dân trong buôn đều trông chờ vào cây lúa, cây ngô trên rẫy. Mỗi năm, người dân chỉ trồng một vụ nên cứ đến mùa giáp hạt là thiếu đói. Dân làng đã tìm đủ loại cây thay thế nhưng không cây nào trụ nổi ở vùng đất khô cằn, nắng gió khắc nghiệt như Ea Trang. Nhưng đó là câu chuyện của ngày xưa, còn bây giờ gia đình, buôn làng ông đã ấm no nhờ rừng keo lai vươn cao xanh tốt.

Ông Y Han Niê dưới tán rừng keo của gia đình.
Ông Y Han Niê dưới tán rừng keo của gia đình.

Ông Y Han kể, năm 2000 UBND xã Ea Trang phát động chủ trương trồng rừng, ông là một trong những hộ tiên phong tham gia. Được cấp hơn 4 ha đất cách nhà khoảng 7 cây số, ông cùng vợ tay dao, tay cuốc lên đồi cải tạo đất trồng keo. Đường đi vừa xa vừa khó lại chẳng có xe cộ, hai vợ chồng phải gùi từng cây keo giống leo lên đồi cao trồng. Nhưng vất vả nhiều cũng đến ngày hái quả. Sau 5-6 năm keo cho thu hoạch. Trung bình mỗi ha keo cho thu từ 130-150 tấn gỗ tươi, giá từ 900.000 đồng - 1.000.000 đồng/tấn, sau khi trừ mọi chi phí, gia đình ông thu lãi khoảng 80 triệu đồng/ha. “Thú thật ngày ấy cán bộ khuyên trồng, mình làm theo thôi chứ nghe thời gian thu hoạch tới tận vài năm là mông lung lắm. Rồi thời gian trôi nhanh, những cây keo bé nhỏ ngày nào đã vụt lớn phủ kín quả đồi. Lúc này, gia đình mình được hưởng thành quả sau thời gian dài trồng, chăm sóc và bảo vệ. Lần đầu cầm được số tiền lớn từ tiền bán gỗ keo, mình vui cái bụng lắm”, ông Y Han nhớ lại. Nhận thấy lợi ích từ cây keo, ông Y Han hướng dẫn từng nhà, từng người trồng. Ban đầu còn nhiều khó khăn, bỡ ngỡ, về sau người dân buôn M’O đã biết trồng, bón phân chăm sóc cây rừng, biết nhìn xa hơn những lợi ích tạm thời trước mắt.

Y Wen Mlô (buôn M’ Yui, xã Ea Trang) có gần 20 năm gắn bó với cây keo lai. Dù nắng hay mưa, ông Y Wen cũng lên rừng keo thăm nom, chăm sóc. Ông cho hay, trồng keo lai cực nhất là giai đoạn đầu. Người trồng phải luôn túc trực trên đồi chăm dưỡng keo non và canh giữ trâu bò dẫm phá. Một công đôi việc, ông trồng xen cây sắn, cây ngô vào phần đất trống vừa diệt cỏ dại vừa tìm thêm nguồn thu. Keo lớn, người trồng như ông mới nhàn tay hơn, chỉ việc rong cành, phát quang bụi rậm chờ ngày thu hoạch.

Người dân trồng xen cây sắn vào diện tích keo lai còn nhỏ kiếm thêm thu nhập.
Người dân trồng xen cây sắn vào diện tích keo lai còn nhỏ kiếm thêm thu nhập.

Trước đây, trồng giống keo truyền thống phải 6 năm trở lên mới cho thu hoạch, còn nay đã có giống mới rút ngắn thời gian thu xuống còn 4 năm mà năng suất, chất lượng gỗ không thay đổi. Với 6 ha đất, ông Y Wen chia trồng nhiều đợt. Cách làm này vừa giúp ông chủ động thời gian trồng, chăm sóc, giảm chi phí nhân công vừa xoay vòng thời gian thu hoạch. Ông Y Wen cho biết, cây keo hiệu quả tuy không cao nhưng ổn định, lại phù hợp với điều kiện đất đai khí hậu của vùng. Đơn cử như năm nay, M’Đrắk hạn hán khốc liệt, thiêu rụi nhiều loại cây trồng như sắn, lúa, đậu, riêng cây keo vẫn bám trụ được. Rừng trồng không chỉ cho ông cuộc sống ấm no mà còn góp phần “hồi sinh” những cánh rừng “chết”.  Vậy nên dẫu có khó khăn vất vả, ông Y Wen cũng như nhiều hộ dân ở đây vẫn thủy chung với những cánh rừng trồng.

Theo thống kê của UBND xã Ea Trang, toàn xã hiện có 1.429,1 ha rừng trồng. Trong đó, có 243,6 ha rừng liên kết (liên kết theo dự án 661 của Chính phủ và liên kết với các lâm trường), còn lại là diện tích rừng trồng thuộc sở hữu của các hộ dân. Diện tích rừng phân bố ở cả 13 thôn, buôn của xã, tập trung nhiều nhất là buôn Thi, buôn M’ Gơm, buôn M’ Hap, buôn M’ Yui, buôn M’ O...

Thanh Thủy


Ý kiến bạn đọc


(E-magazine) Kiến tạo kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Đắk Lắk không chỉ nằm trong khu vực có hệ sinh thái tự nhiên phong phú, đa dạng phù hợp cho phát triển nông nghiệp, mà còn là địa phương có đến 49/53 dân tộc thiểu số cùng sinh sống. Đây là lợi thế cạnh tranh rất lớn cho tỉnh trong xây dựng và phát triển Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), tạo dựng nền nông nghiệp giàu bản sắc, kiến tạo kinh tế vùng nông thôn vững mạnh, tạo cú hích nâng tầm giá trị cho nông sản địa phương vươn ra thị trường trong và ngoài nước.