Multimedia Đọc Báo in

Những điểm mới của Quyết định 971 về sửa đổi, bổ sung Quyết định 1956 của Thủ tướng Chính phủ

09:36, 12/12/2016
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ngày 1-7-2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 971/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung Quyết định 1956/QĐ-TTg ngày 27-11-2009 về “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả của đào tạo nghề.

Đối tượng của đề án:

Theo Quyết định số 971, đối tượng của Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” là lao động nông thôn từ đủ 15 tuổi đến 60 tuổi (đối với nam), 55 tuổi (đối với nữ), có trình độ học vấn và sức khỏe phù hợp với nghề cần học, bao gồm: người lao động có hộ khẩu thường trú tại xã; người lao động có hộ khẩu thường trú tại phường, thị trấn đang trực tiếp làm nông nghiệp hoặc thuộc hộ gia đình có đất nông nghiệp bị thu hồi. Ưu tiên đào tạo nghề cho người lao động thuộc diện hưởng chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, dân tộc thiểu số, khuyết tật, bị thu hồi đất nông nghiệp, ngư dân.

Mục tiêu giai đoạn 2016-2020:

Chương trình đặt mục tiêu cụ thể giai đoạn 2016-2020 là đào tạo nghề cho 6 triệu lao động, trong đó, khoảng 5,5 triệu lao động nông thôn được đào tạo nghề (1,4 triệu người học nghề nông nghiệp và 4,1 triệu người học nghề phi nông nghiệp). Sau đào tạo, ít nhất 80% số người học có việc làm mới hoặc tiếp tục làm nghề cũ nhưng có năng suất, thu nhập cao hơn.

Bên cạnh đó, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, năng lực quản lý hành chính, quản lý kinh tế - xã hội chuyên sâu cho khoảng 500.000 lượt cán bộ, công chức xã đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, quản lý kinh tế - xã hội thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

Cán bộ  Trung tâm  Dạy nghề  huyện Krông Ana  tham quan  mô hình  trồng nấm  của học viên.
Cán bộ Trung tâm Dạy nghề huyện Krông Ana tham quan mô hình trồng nấm của học viên.

Tổ chức đào tạo nghề:

Việc tổ chức đào tạo nghề cho lao động nông thôn chủ yếu là dạy thực hành và được thực hiện tại nơi sản xuất. Thời gian đào tạo phải phù hợp với nghề đào tạo, đặc điểm của quy trình sản xuất, sinh trưởng của cây trồng, vật nuôi ở từng vùng, địa phương và phù hợp với nhu cầu của người học.

Các nghề đào tạo cho lao động nông thôn phải đa dạng, cụ thể, theo nhu cầu của người học và thực tiễn sản xuất; từ đào tạo một công đoạn, một kỹ năng nghề nhất định, đến đào tạo cấp văn bằng, chứng chỉ một cách đầy đủ, toàn diện theo quy định của Luật Giáo dục nghề nghiệp.

Bên cạnh đó, thu hút các cơ sở đủ điều kiện tham gia đào tạo nghề cho lao động nông thôn, không phân biệt cơ sở công lập hay ngoài công lập. Khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp chủ động đào tạo, nâng cao kiến thức, kỹ năng nghề cho người lao động.

Sửa đổi cơ chế tài chính của Đề án:

Việc sử dụng kinh phí để tổ chức hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn thực hiện theo cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ đào tạo theo quy định của Luật Đấu thầu, Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn luật.

Các địa phương tự cân đối được ngân sách phải đảm bảo kinh phí từ ngân sách địa phương để thực hiện chính sách hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn và hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã theo đề án này.

Ngân sách Trung ương hỗ trợ có mục tiêu cho các địa phương chưa tự cân đối ngân sách để thực hiện chính sách hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn, hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã; các Bộ, ngành, đoàn thể để nhân rộng mô hình dạy nghề cho lao động nông thôn.

Kinh phí thực hiện Đề án được bố trí riêng trong chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình quốc gia cụ thể trong từng giai đoạn.

Quyết định này cũng chỉnh sửa trách nhiệm của các Bộ liên quan trong việc thực hiện Đề án, thay đổi một số cụm từ trong một số nội dung của Đề án.

Nguyễn Xuân (soạn)


Ý kiến bạn đọc


(E-magazine) Kiến tạo kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Đắk Lắk không chỉ nằm trong khu vực có hệ sinh thái tự nhiên phong phú, đa dạng phù hợp cho phát triển nông nghiệp, mà còn là địa phương có đến 49/53 dân tộc thiểu số cùng sinh sống. Đây là lợi thế cạnh tranh rất lớn cho tỉnh trong xây dựng và phát triển Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), tạo dựng nền nông nghiệp giàu bản sắc, kiến tạo kinh tế vùng nông thôn vững mạnh, tạo cú hích nâng tầm giá trị cho nông sản địa phương vươn ra thị trường trong và ngoài nước.