Khúc tráng ca của núi rừng
Tiểu thuyết dựng lại thời kỳ chống Mỹ gian khổ, ác liệt ở chiến trường Dak Lak mà tác giả là nhân chứng, dòng Krông Bông làm biểu tượng chứng kiến sự bi hùng của giai đoạn “ra ngõ gặp anh hùng” một đi không trở lại.
Ở chiến trường Dak Lak, ngoài việc đánh giặc, làm công việc chuyên môn còn lo tự túc lương thực, có ăn mới tồn tại để mà chiến đấu. Có chuyện thật mà như bịa, những người mới về cơ quan nào, sau khi gặp gỡ chào hỏi dăm ba câu là được phân chia dao quắm và hướng dẫn cách sử dụng. Phát rẫy, đốt rẫy, gieo trồng, đuổi chim thú, thu hoạch, bảo quản là cả một quá trình tích lũy kinh nghiệm.
Xa hậu phương miền Bắc, xa cả Trung ương Cục miền Nam, nằm trong khu V nhưng Bộ Chỉ huy Quân khu lại ở Quảng Nam, cho nên Dak Lak chỉ được chi viện người là chính. Vũ khí, thuốc men còn thiếu thì nói gì đến lương thực, thực phẩm. Việc phải đổi miếng ăn bằng máu thường xuyên xảy ra khi nhà cửa, đất đai, hoa màu, nông cụ đều là mục tiêu hủy diệt của Mỹ, huống gì là con người.
Nguồn lương thực ngoài khoai, mì, lúa, bắp còn rau, chuối, cà, ớt… đều nằm trong cái bẫy của tử thần. Càng hiểu vì sao Krông Bông thành huyền thoại. Riêng Khuê Ngọc Điền có hơn sáu nghìn dân, sau khi bị chết, o ép, xúc tát và một số đi thoát ly hoạt động cách mạng chỉ còn hơn ba trăm người.
Trúc Hoài tập trung nhiều trang bi thương về việc giành giật cái ăn. Nhiều trang đẫm nước mắt. Đây là trang viết về cái chết của Khánh, khi cô đi cắt lúa bị trực thăng bắn trúng mặt, vỡ đầu: “Cô gái mới đến cầm bàn tay người chết lên coi. Cô rút ra chiếc nhẫn, lau vô vạt áo cho sạch bùn, rồi bấm đèn pin, xem kỹ. Một lúc, cô không nói gì, hất chiếc mũ tai bèo ra phía sau gáy, để lộ khuôn mặt dân dấn nước mắt. Cô lục túi áo bà ba của người chết, rút ra chiếc lược màu trắng, dài bằng nửa gang tay. Cô ngước mặt nhìn bà con xung quanh, rồi nhìn chiếc nhẫn, chiếc lược. Cô bật lên tiếng khóc và giọng mếu máo nói với người đã chết và nói với cả người đang sống:
- Trời ơi, răng mà ra nông nỗi ni, hở Khánh? Rứa là mi bỏ tao rồi!” – T. 244.
Chi tiết cái nhẫn, cái lược cho ta thấy con người khát yêu, khát sống, còn thanh xuân và chuẩn bị lấy chồng. Thế mà bị chết vì đi cắt lúa để tìm cái ăn. Rõ ràng là bi kịch của chiến tranh.
Gian nan tìm cái ăn nên một lần cùng đoàn người đi nhổ mì về, Hà bị thương do vướng mìn, nhưng may chỉ vào phần mềm lại được Hồng Thắm băng bó nên vẫn gánh được gánh mì.
Hai người có cảm tình với nhau nên đi cuối đoàn, kịp cho Hồng Thắm tặng hộp cao su sao vàng cho Hà để ngày mai mình chuyển công tác sang thôn Năm. Hộp cao đó lại đựng muối, sau này mới biết. Đỉnh điểm được đẩy lên thành bi kịch. Hồng Thắm chết ngay trong đêm đó khi rẽ khỏi lối mòn để đi tiểu tiện. Rớt xuống hầm đột ngột, lưng nặng gùi mì, bị bể bóng đái mà chết không kịp kêu: “Một cái hầm cá nhân lâu ngày, cỏ mọc phủ miệng. Dưới ánh đèn pin, hai vạt áo bà ba đen, bao mang cũng màu đen hiện ra. Hồng Thắm trong tư thế ngồi bó gối. Anh Mẹo đưa tay vô mũi cô và bảo mọi người cùng đưa cô lên. Hà trải chiếc võng của Hồng Thắm tặng anh xuống cỏ. Hồng Thắm nằm ngay ngắn không hề động đậy” – T.278. Đó là cái chết lặng lẽ, đau xót, bi ai, chỉ chiến trường Tây Nguyên mới có.
Như vậy khát vọng ăn cũng là khát vọng sống, khát vọng chiến đấu ở chiến trường Dak Lak mà tiểu thuyết đã phần nào lý giải. Đó cũng là thành công khi viết về đề tài chiến tranh từ một vùng đất, vì một vùng đất.
***
Cùng với đội ngũ chi viện, tiểu thuyết còn có nhân vật là người thật, kiên trung bám trụ, nằm vùng từ thời chống Pháp được cài cắm lại mà quê ở Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên… Không ít người đã cà răng, căng tai cho dễ hoạt động. Rồi những người dân Quảng Nam – Đà Nẵng do trung dũng kiên cường mà bị hốt lên Dak Lak bị kìm kẹp trong các dinh điền cùng các ama, amí, Y, H’ được tuyên truyền giác ngộ cùng tạo nên làn sóng đấu tranh bởi sẵn lòng yêu nước nồng nàn. Tất cả hội tụ ở chiến trường Dak Lak qua tiểu thuyết của Trúc Hoài. Giữa chiến trường ác liệt, tình yêu muôn thuở vẫn vút lên cung bậc, lãng mạn và bi ca, tráng ca như đời vẫn vậy.
Đám cưới Hà – Nguyệt chờ đợi mãi rồi cũng đến. Tôi cũng từng chứng kiến đám cưới thời chiến. Có đám cưới, chi bộ Đảng phải họp để có nghị quyết cho giã mấy gùi lúa, cử những ai đi bắn thú rừng… Đám cưới trong tiểu thuyết của Trúc Hoài đặc biệt điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Ấy là mùa khô năm 1967, địch đã rải chất độc hóa học trước đó nên hết cả lương thực. Đêm cưới lại bị cháy lán nên máy bay L.19 đã bắn rốc két xuống khu lán. Ngôi nhà hạnh phúc cũng tan nát. Phó bí thư Chi bộ là ông Tâm thấy hoàn cảnh đó nên cho Nguyệt – Hà ra rẫy Cây Sung (coi như phòng tân hôn). Ông còn dặn: “- Nhớ xách cái nồi ra rẫy, bẻ mấy trái bắp nấu ăn tối. Bắp mới héo râu, ngon không biết chê đâu được.
Nguyệt hỏi lại ngạc nhiên:
-Dạ, chi bộ mới ra nghị quyết không được ăn bắp tươi, chờ bắp khô vỏ mới được thu hoạch mà chú…
-Ừ còn chuyện nghị quyết thì khỏi lo, tao nói nhỏ với ông Chín một tiếng. Trường hợp đặc biệt mà. Không lẽ cơ quan tiếc một nồi bắp tươi để mừng tân hôn hai đứa bay sao”. – T.486
Đây là chi tiết đắt, tình người sáng lên lấp lánh, đó cũng là bản chất cộng sản chân chính. Kẻ thù vẫn rêu rao: cộng sản không có tình. Nhưng không phải thế, chỉ vì hoàn cảnh bắt buộc nên nhiều khi phải dằn lòng cam chịu, gạt bỏ tình riêng cho tình chung vì nước, vì dân.
Hạnh phúc ở chiến trường chỉ tính từng ngày. Sau đám cưới, địch càn vào căn cứ. Hà và Y Krô chặn địch cho cơ quan rút vào hang đá. Hà bị thương ở chân nên không nhảy qua được khe đá nên bị rớt xuống hang. Mọi người dùng dây thả Y Krô xuống hang tìm kiếm. Đến lượt Tám xuống, thấy tiếng ú ớ, biết Hà còn sống, mọi người đã mừng. Cùng lúc đó, hai máy bay AD6 quần đảo. Mọi người phải tránh để đá khỏi lăn đè vào người khi chúng thả bom. Bom dội khoảng nửa giờ, đá lăn xuống ầm ầm, lấp dần khe đá nơi có Hà ở dưới.
“Tám đưa cho Nguyệt chiếc mũ tai bèo màu tím đậm. Cậu nói:
-Em gởi chị chiếc mũ của anh Hà. Nó nằm trên mặt tảng đá xuống hang. Chị ơi!
Tám ôm cánh tay Nguyệt, khóc nức nở. Nước mắt che mờ đôi mắt to của Nguyệt… Giọng Nguyệt mếu máo:
-Không lẽ chồng tôi chỉ còn lại như vầy sao?... Để cho tôi nhìn thấy chồng tôi ngã xuống chỗ nào?” – T.513
Chiến tranh đẩy sự sống và cái chết chỉ còn gang tấc. Vừa có nụ cười hạnh phúc lại đến tiếng khóc bi ai cắt lìa đôi lứa. Khúc bi tráng từ dòng Krông Bông là vậy. Câu nói của Nguyệt đau xé lòng, gieo vào tâm khảm lên án chiến tranh.
Tiểu thuyết khá dài, mở ra nhiều bình diện. Tôi chỉ tạm cày xới hai điểm nổi trội. Đó là việc phải tự túc lương thực, có ăn mới tồn tại mà đánh giặc. Cả quân, dân, chính, Đảng đều như vậy. Đến gần cuối cuộc chiến tranh mới được chi viện lương thực. Nên nhiều người hy sinh vì tìm cái ăn thật tức tưởi, đau lòng. Bên cạnh đó là tình yêu đôi lứa, họ biết hy sinh cái riêng cho cái chung để quê hương, đất nước được độc lập, hòa bình.
Điều khẳng định là tác phẩm chân thực, xúc động, được viết ra bởi lửa nhiệt tình nung nấu, lòng tri ân với đất và người mà bản thân mình là nhân chứng, cùng chiến đấu những ngày sống đẹp của cuộc đời mình.
Tác phẩm là khúc tráng ca của rừng xanh, dù có trang bi ai nhưng những sự hy sinh mang lý tưởng thẩm mỹ.
Tháng 1-2013
Hữu Chỉnh
(Đọc Từ sông Krông Bông – Tiểu thuyết của Trúc Hoài – NXB Công an Nhân dân – 2012)
Ý kiến bạn đọc