"Nước mắt màu xanh thẫm" – thêm một cuốn sách hay về Tây Nguyên
Tình trạng mất rừng, tình trạng di dân để xây dựng nông – lâm trường, xây dựng các công trình thủy điện… ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân ở Tây Nguyên đã được phản ánh đậm nét trong “Nước mắt màu xanh thẫm”. Trong cuốn tiểu thuyết này, người đọc sẽ thấy được tâm trạng của người dân buôn Kroa khi phải di dời để làm thủy điện, lập nông trường: “Tiếc là tiếc tiếng suối Kroa chảy róc rách đến quen tai như giọng nói của người thân, nhớ là nhớ gốc cây pơ lang cổ thụ nở hoa đỏ rực như ai đốt lửa mỗi mùa lễ hội, thương là thương khoảng rừng hào phóng cho người bao nhiêu là măng là nấm…” (trang 10), Do không tổ chức tốt việc tái định cư cho dân nên dân bị đói, phải ăn cả bắp giống, phải lên huyện, lên tỉnh xin cứu đói. Có cán bộ đổ cho dân biếng làm. Nhưng người dân thì nghĩ khác: “Buôn Kroa bây giờ ra đói khổ thế này là vì mất bến nước, mất con suối Kroa. Yàng nước bỏ đi, Yàng đất bỏ đi. Yàng rừng cũng đi nốt. Làm sao không nghèo, không đói”. Hẳn đây cũng là lý do để tác giả đặt tên cho tiểu thuyết là “Nước mắt màu xanh thẫm”- một lối nói ẩn dụ về sự mất mát của rừng xanh, của văn hóa bản địa, của nước mắt chảy ra từ thăm thẳm gan ruột người dân. Đây thực sự là một thông điệp, một lời cảnh báo mạnh mẽ đối với các ngành, các cấp trong việc triển khai thực hiện các dự án ở Tây Nguyên, đặc biệt các dự án phải di dời dân. Qua đây chúng ta cũng thấy được tính trung thực, thẳng thắn, không né tránh cả những vấn đề gai góc và trách nhiệm công dân của tác giả với vùng đất mà anh đã yêu quý, gắn bó gần 20 năm nay.
Yếu tố hư ảo trong “Nước mắt màu xanh thẫm” được tác giả vận dụng sáng tạo từ quan niệm luân hồi của người Êđê: Con người có linh hồn, sau khi chết linh hồn biến hóa trở thành giọt sương. Từ giọt sương Yàng Aê Diê sẽ cho chuyển kiếp, ai may mắn được nhập hồn vào đứa trẻ sơ sinh trở lại kiếp người ở ngay chính buôn làng mình, ai xui xẻo phải đi xa chín núi mười sông, ai bị trừng phạt phải làm cầm thú hoặc những vật vô tri. Trong tiểu thuyết này, nhân vật Y Liê là người tốt, một thanh niên dũng cảm từng tham gia nghĩa quân Nơ Trang Gưh, từng sáng tạo ra bẫy đá để đánh đuổi “thằng Tây mũi lõ”, bị thằng Juăn một kẻ phản bội buôn làng bắn lén chết, không đợi được sự “sắp xếp” của Yàng Aê Diê để trở lại làm người, Y Liê đã chấp nhận hóa kiếp thành con khỉ Kra để được trở về sống bên núi Chư Mang cùng với buôn làng. Vì vậy Kra hiểu rõ cả quá khứ (giai đoạn đầu của thế kỷ 20) và hiện tại của vùng đất Chư Mang. Yếu tố ảo và thực trong tiểu thuyết được trộn lẫn và xuất hiện một cách hợp lý. Tác giả đã tỏ ra là một “đầu bếp” khéo tay trong “pha chế” hai nguyên liệu thực - ảo, để người đọc có một món ăn lạ, không chỉ chấp nhận được mà còn thấy ngon miệng.
Trong “Nước mắt màu xanh thẫm” Nguyễn Văn Thiện đã xây dựng được một hệ thống nhân vật có số phận, diện mạo, hồn vía khá ấn tượng, như già Âng, Y Đoan, Juăn… nhưng nổi bật nhất là hai nhân vật chính có mặt từ đầu đến cuối tác phẩm: Khỉ Kra và nàng H’Nhi. Khỉ Kra vừa là người hiền, vừa là dũng sĩ, vừa là “sử gia” làng, vừa là hề làng… Dù là khỉ nhưng biết sống chung thủy, nghĩa tình, là kẻ biết hết mọi chuyện lớn bé trong làng dù không nói được, ngôn ngữ giao tiếp chỉ là tiếng kêu kéc kéc. H’Nhi là biểu tượng của người con gái, người phụ nữ Tây Nguyên xinh đẹp, giàu nghị lực, vị tha, dù số phận không may mắn phải chịu nhiều đau khổ nhưng lòng luôn luôn hướng thiện, luôn luôn biết sống vì người khác.
Về kỹ thuật xây dựng tiểu thuyết, ở đầu mỗi phần (như là một chương) của tiểu thuyết, Nguyễn Văn Thiện đã tạo ra sự mới, lạ bằng một “đoạn dẫn” khá li kỳ, mờ ảo. Đó là câu chuyện giữa hai người “mình” và “ta” về lũ quỷ ăn sỏi trên lòng suối, về chuyện bị quỷ ám… Ngỡ như những “đoạn dẫn” đó lạc lõng với nội dung câu chuyện. Nhưng ngẫm nghĩ kỹ, ta sẽ thấy sự thâm thúy của tác giả, bởi những “đoạn dẫn” đó gợi cho ta nhiều suy ngẫm về những điều khó giải thích của thực tại có liên quan đến những gì đang xảy ra trong cuộc sống mà tiểu thuyết đề cập. Ví dụ: “Mình bảo, khi đôi mắt có vấn đề thì không nhìn thấy được sự thật mà chỉ thấy những ảnh ảo của nó mà thôi” (trang 59); hoặc “Ta run rẩy nghĩ, tội lỗi quá đi mất. Những viên đá cuội bị ăn mất, đến hồn suối, hồn núi cũng bị ăn, ăn cả hồn người nữa!” (trang 114)... Văn phong trong “Nước mắt màu xanh thẫm” rất gần với lối nói, lối nghĩ của đồng bào Tây Nguyên. Ví dụ “chân mày chưa kịp đến thì tiếng chuông đã đi trước rồi”, hoặc “đừng vào chuồng dắt bò người ta đi rồi mới bàn chuyện mua bán”… Bạn đọc cũng sẽ được thưởng thức nhiều trang văn về cảnh thiên nhiên, cảnh “gần gũi” của trai gái khi yêu nhau đầy thú vị.
Điều khiến bạn đọc có thể có một chút băn khoăn là cách kết thúc của tác phẩm. Những ai đã quen với lối kết thúc có hậu sẽ cảm thấy một chút hẫng hụt về số phận của các nhân vật chính, số phận của cả cộng đồng cư dân buôn Kroa. Hẳn đây cũng là chủ ý của tác giả nhằm phản ánh sự thật trung thực hơn và làm tăng thêm sức nặng cho thông điệp cảnh báo.
Có thể khẳng định “Nước mắt màu xanh thẫm” là một tiểu thuyết thành công của Nguyễn Văn Thiện, tạo được ấn tượng đối với người đọc và sẽ là một nét son trên con đường phát triển của văn học Đắk Lắk.
Đặng Bá Tiến
Ý kiến bạn đọc