Nguyên nhân và giải pháp hạn chế thiệt hại do thiên tai gây ra ở Tây Nguyên
Tây Nguyên là vùng đất giàu có về tài nguyên khí hậu nhiệt đới gió mùa cao nguyên với đặc trưng quanh năm chan hòa ánh nắng, cây cối bốn mùa xanh tốt. Tuy nhiên, sự phân hóa sâu sắc theo không gian và thời gian của chế độ khí hậu thủy văn kết hợp với tính chất phức tạp của địa hình, những hoạt động thái quá của con người và đặc biệt là sự tác động mạnh mẽ của biến đổi khí hậu toàn cầu đã làm cho thiên tai có nguồn gốc từ khí hậu thủy văn ở nơi đây đang ngày một khốc liệt và có chiều hướng gia tăng. Khô hạn trong mùa khô và lũ lụt trong mùa mưa hằng năm đã gây thiệt hại trực tiếp hàng trăm tỷ đồng, hàng chục người thiệt mạng, để lại những hậu quả xấu về môi trường. Ngoài ra, các biến động khác như sạt lở đất, lốc tố, mưa đá, dông sét, gió tây nắng nóng, sương mù, sương giá,... cũng đã gây ra không ít khó khăn trở ngại cho đời sống sinh hoạt và sản xuất của nhân dân Tây Nguyên.
Nguyên nhân dẫn đến sự hình thành thiên tai trước hết là do tính chất phân hóa theo không gian, thời gian của các yếu tố thời tiết thủy văn. Trong đó đáng chú ý nhất là các yếu tố mưa và dòng chảy. Sự chênh lệch lớn giữa hai mùa khô cạn và mưa lũ của hai yếu tố này làm cho mùa mưa thì thừa nước sinh lũ lụt, đến mùa khô lại chịu cảnh hạn hán, thiếu nước. Địa hình cũng góp phần đáng kể vào việc hình thành thiên tai. Hệ thống đồi núi nhấp nhô, đỉnh khá nhọn và cao nguyên bậc thềm xen kẽ làm cho địa hình phân cắt, hiểm trở, đi lại khó khăn, nhiều nơi độ dốc trên 10 độ. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc rửa trôi, xói mòn, dồn nước nhanh chóng tạo nên những cơn lũ quét và những cơn lũ có biên độ lũ lớn, sườn lũ dốc, khó dự báo trước, gây thiệt hại đáng kể cho sản xuất, xây dựng, giao thông thủy lợi, có khi là cả tính mạng con người. Hoạt động của con người là một trong những nguyên nhân làm cho thiên tai có chiều hướng gia tăng và thêm nguy hiểm hơn. Tàn phá rừng tự nhiên đã làm mất cân bằng sinh thái nghiêm trọng. Nhiều vùng đất vốn xưa kia có cây rừng nay bị tàn phá trở nên cằn cỗi, không còn khả năng điều hòa dòng chảy làm cho dòng chảy lũ vốn đã nguy hiểm do độ dốc lớn nay lại thiếu sự che chắn của cây rừng nên càng trở nên nguy hiểm hơn. Không còn cây rừng thì chỉ sau khi kết thúc mưa một thời gian đất đai lại trở nên khô cằn, dòng chảy cạn kiệt.
Tây Nguyên cũng là một trong những vùng chịu ảnh hưởng tác động mạnh mẽ của sự biến đổi khí hậu, biểu hiện nhiều ở các yếu tố nhiệt độ, mưa và dòng chảy sông suối. Đã có những ghi nhận về sự gia tăng chênh lệch nhiệt độ ngày đêm theo hướng tăng cao về ban ngày, hạ thấp về ban đêm; hoặc trong một số tháng của mùa khô, ở một số nơi đã có hiện tượng nhiệt độ tăng cao, gây ra hiện tượng nắng nóng hơn bình thường,... Với lượng mưa, chưa có dấu hiệu rõ ràng cho thấy tổng lượng mưa năm có thay đổi, nhưng sự phân bố mưa theo không gian và thời gian thì lại có những dấu hiệu khá rõ nét. Trong đó, đáng lưu ý nhất là hiện tượng mưa tập trung với cường độ mạnh và lượng lớn xảy ra trong không gian hẹp đã khiến cho loại hình thiên tai lũ quét có xu hướng xuất hiện nhiều hơn. Trước đây loại hình lũ quét do mưa lớn gây ra chỉ được ghi nhận ở địa phận tỉnh Dak Lak nhưng nay thì ở hầu hết các tỉnh Tây Nguyên đều đã từng xuất hiện hiện tượng thiên tai nguy hiểm này. Những biến động của các yếu tố nhiệt độ, lượng mưa kết hợp với những thay đổi diện mạo của bề mặt đất được xem là nguyên nhân chính gây ra những hiện tượng thời tiết nguy hiểm khác như gió lốc, mưa đá, giông sét, nhất là gió lốc và mưa đá. Cùng với các yếu tố nhiệt độ và mưa, lượng dòng chảy trên các sông suối ở Tây Nguyên cũng chịu ảnh hưởng đáng kể của quá trình biến đổi khí hậu và những thay đổi bề mặt lưu vực. Biến đổi khí hậu đã làm cho dòng chảy sông suối ở Tây Nguyên mất đi sự hiền hòa vốn có, thể hiện nhiều qua mức độ cạn kiệt nghiêm trọng trong mùa khô, còn mùa lũ thì xu thế đỉnh lũ nhọn hơn, cao hơn, cường xuất lũ lớn hơn,... Lũ lụt, hạn hán xuất hiện nhiều và ngày một trở nên nguy hiểm hơn, trở thành thiên tai thường niên, rình rập gây hại đến tính mạng, tài sản của nhân dân, ảnh hưởng đến tốc độ phát triển kinh tế xã hội của khu vực.
Ngoài những nguyên nhân nêu trên cũng phải kể đến sự thiếu đồng bộ trong khâu tổ chức quy hoạch sản xuất. Nhiều nơi nhân dân còn bố trí sản xuất theo hướng tự phát, manh mún, dựa vào kinh nghiệm là chính, chưa có sự hướng dẫn đầy đủ về quy trình khoa học kỹ thuật, chưa tính đến các tác động tiêu cực của thời tiết thủy văn đã làm cho công tác phòng chống và giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai gây ra trở nên khó khăn hơn. Cũng cần nói thêm rằng công tác cảnh báo, dự báo và triển khai các bước phòng chống thiên tai ở Tây Nguyên còn gặp rất nhiều khó khăn do mạng lưới đo đạc quan trắc quá mỏng trong khi sự phân hóa khí hậu thủy văn theo không gian lại rất sâu sắc; địa bàn rộng lớn, kinh phí, nhân lực và phương tiện có hạn.
Để chủ động hạn chế, khắc phục tình trạng thiên nhiên tàn phá phục thì cần triển khai tốt những việc làm thiết thực, chủ động nắm bắt nguy cơ xuất hiện thiên tai để có các bước đối phó thích hợp. Các biện pháp phòng chống thiên tai (PCTT) ở Tây Nguyên phải là biện pháp tổng hợp, liên kết với nhau, cần được xây dựng dựa trên điều kiện tự nhiên, trình độ phát triển kinh tế xã hội của địa phương và tình hình thiên tai hằng năm. Việc xây dựng và áp dụng các biện pháp PCTT phải đảm bảo tính chủ động và nâng cao hiệu quả giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai gây ra, tiến tới hạn chế những nguyên nhân phát sinh thiên tai, giảm mức độ nguy hiểm của thiên tai, hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế xã hội nhanh, bền vững mà vẫn bảo đảm duy trì tốt cảnh quan, môi trường. Các biện pháp cần được áp dụng là:
- Luôn chủ động nắm bắt những diễn biến của thời tiết thủy văn. Rất cần có sự đầu tư xây dựng bổ sung mạng lưới quan trắc đo đạc khí tượng thủy văn, từng bước nâng cấp hiện đại hóa mạng lưới thông tin hai chiều, đáp ứng kịp thời các thông tin về tình hình thời tiết thủy văn giữa cơ quan chuyên môn là Đài Khí tượng Thủy văn Khu vực Tây Nguyên, các Trung tâm Khí tượng thủy văn các tỉnh và các Trạm quan trắc do Đài quản lý với các địa phương, các ban, ngành, cơ quan và cá nhân sử dụng bản tin dự báo khí tượng thủy văn.
- Tăng cường công tác bảo vệ, khoanh nuôi và trồng mới rừng đầu nguồn, xử lý nghiêm các trường hợp cố tình vi phạm chặt phá rừng.
- Đầu tư xây dựng mới; tu bổ nâng cấp độ an toàn và hiệu quả sử dụng của các hồ chứa hiện có.
- Khảo sát, quy hoạch tính toán cân bằng giữa nhu cầu dùng nước thực tế và khả năng cấp nước của các công trình để có kế hoạch đầu tư khai thác nước ngầm phục vụ sinh hoạt, sản xuất.
- Quy hoạch, bố trí hợp lý dân cư, cân đối sản xuất theo hướng phù hợp với trình độ sản xuất và điều kiện tự nhiên trong đó chú trọng tài nguyên đất và tài nguyên nước.
- Tăng cường công tác tổ chức chỉ đạo, luôn chuẩn bị tốt về nhân lực, cơ sở vật chất, kinh phí và phương tiện sẵn sàng ứng phó khi có các tình huống xấu xảy ra.
- Tuyên truyền, vận động nhân dân cùng tích cực tham gia phòng chống thiên tai. Có các hình thức phổ biến kiến thức giúp cho mọi người dân nhận biết rõ hơn về thiên tai, nâng cao ý thức tự bố trí phòng chống. Di dời, bố trí vị trí tái định cư cho các hộ dân nằm trong vùng nguy cơ sạt lở đất đá, vùng quy hoạch điều tiết của các hồ chứa…
Trung tâm Khí tượng Thủy văn tỉnh Kon Tum
Ý kiến bạn đọc