Multimedia Đọc Báo in

Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn trả lời khiếu nại của công dân

05:54, 07/06/2015

LTS: Báo Dak Lak nhận được đơn của ông Y Bih Adrơng (SN 1947) và ông Siu Jel (SN 1967) cùng trú tại buôn Ea Mtha 1B, xã Ea Nuôl, huyện Buôn Đôn khiếu nại về việc TAND huyện Buôn Đôn không thụ lý vụ án hành chính. Nội dung đơn ông Y Bih Adrơng và ông Siu Jel cho biết: Hai ông là đại diện theo ủy quyền của hơn 90 hộ dân buôn Ea Mtha 1B, xã Ea Nuôl, huyện Buôn Đôn trong vụ khởi kiện hành chính về việc không tổ chức thực hiện quyết định của UBND huyện Buôn Đôn. Bị đơn là UBND xã Ea Nuôl. Mặc dù hai ông đã nộp đơn khởi kiện tại TAND huyện Buôn Đôn hơn 8 tháng qua nhưng không hiểu vì lý do gì, TAND huyện Buôn Đôn vẫn không thụ lý vụ án và cũng không có bất cứ văn bản nào trả lời về việc khởi kiện vụ án… Mới đây, Báo Dak Lak nhận được Báo cáo giải trình số 39/BC-TA, ngày 4-5-2015 của TAND huyện Buôn Đôn do ông Trịnh Văn Toàn, Chánh án ký, trả lời quá trình giải quyết vụ việc như sau:

Diễn biến vụ việc:

Trước năm 1987, một số hộ dân ở xã Ea Nuôl có khai hoang đất tại đồi 330 thuộc xã Ea Nuôl để sản xuất nông nghiệp. Năm 1987, Hợp tác xã Nông nghiệp Ea Mtha (gọi tắt là HTX) được thành lập (do Phòng Kinh tế thị xã Buôn Ma Thuột quản lý, giám sát). Để có đất sản xuất, HTX đã sử dụng 107,9 ha đất tại đồi 330 của 119 hộ dân ở buôn Ea Mtha đưa vào HTX quản lý sản xuất. Đến năm 1995, HTX ký kết hợp đồng với các hộ dân ở TP. Buôn Ma Thuột và xã Ea Bar, Ea Nuôl (huyện Buôn Đôn) thuê đất liên kết để trồng cà phê tại đồi 330. Theo hợp đồng thì bên A (HTX) có trách nhiệm giao đất cho bên B (bên ký hợp đồng) để quản lý và sử dụng đất trồng cà phê, tự túc đầu tư từ năm 1995 trở đi. Diện tích các bên thỏa thuận ghi trong hợp đồng là 116,6 ha. Bên B có trách nhiệm trả tiền công khai hoang (3,5 triệu đồng/1 ha) và tự đóng thuế nông nghiệp, phân phối ăn chia sản phẩm từ năm thứ 5 trở đi (tính từ năm 2001 đến 2045) và nộp 3% sản lượng. Trong quá trình hoạt động, đến năm 1999, HTX bị giải thể nên không còn tổ chức đoàn thể nào giám sát hợp đồng liên kết đất trên nên không thu được sản phẩm cà phê để trả cho các hộ dân như đã thỏa thuận trong hợp đồng.

Đến năm 2009, các hộ dân đã làm đơn khiếu nại. Ngày 19-8-2009, UBND huyện Buôn Đôn đã ban hành Quyết định số 1412, ngày 14-9-2009 “về việc giải quyết khiếu nại về hợp đồng đất liên kết trồng cà phê tại đồi 330” (gọi tắt là Quyết định 1412) của các hộ dân buôn Ea Mtha, xã Ea Nuôl đối với UBND xã Ea Nuôl vì không thu hồi 3% sản phẩm cà phê nhân hằng năm (từ năm 2001 đến hết năm 2045) và trích ra 60% tổng thu trên để hỗ trợ cho các hộ dân có đất tại đồi 330, còn lại 40% giao cho UBND xã Ea Nuôl sử dụng để xây dựng các công trình phúc lợi tại địa phương.

Sau khi có quyết định giải quyết khiếu nại, UBND xã Ea Nuôl vẫn chưa thực hiện việc chi trả sản phẩm cà phê nhân hằng năm cho các hộ dân có đất tại đồi 330. Ngày 30-9-2014, TAND huyện Buôn Đôn nhận được đơn của 89 hộ dân ở buôn Mtha 1B, xã Ea Nuôl, huyện Buôn Đôn khởi kiện UBND xã Ea Nuôl không thực hiện Quyết định 1412. Đại diện theo ủy quyền cho người khởi kiện là ông Y Bih Adrơng (SN 1947), ông Siu Jel (SN 1967) và bà H’Blun Niê (SN 1990), cùng trú tại buôn Ea Mtha 1B, xã Ea Nuôl.

Kết quả giải quyết vụ việc:

Qua nghiên cứu đơn khởi kiện của các hộ dân nói trên, về hình thức và nội dung đơn khởi kiện chưa đúng quy định, các tài liệu, chứng cứ để chứng minh yêu cầu khởi kiện chưa đầy đủ. Do đó, TAND huyện Buôn Đôn đã yêu cầu người khởi kiện bổ sung đơn khởi kiện và cung cấp các tài liệu, chứng cứ nhưng các đương sự không bổ sung và không hợp tác làm việc.

Ngày 16-10-2014, TAND huyện Buôn Đôn làm việc với lãnh đạo UBND huyện và các ngành nội chính của huyện, được biết vụ việc đã được UBND huyện Buôn Đôn chỉ đạo UBND xã Ea Nuôl thực hiện Quyết định 1412 và đã thu sản phẩm cà phê của một số hộ dân, quy ra tiền là 260 triệu đồng. Do danh sách và hồ sơ của các hộ khởi kiện chưa đầy đủ nên xã chưa chi trả.

Ngày 19-1-2015, TAND huyện Buôn Đôn triệu tập ông Y Bih Ađrơng, ông Siu Jel và bà H’Blun Niê đến để hướng dẫn làm thủ tục nhận sản lượng theo Quyết định 1412. Các đương sự đến nhưng không hợp tác làm việc mà bỏ về, sau đó làm đơn khiếu nại cho rằng TAND huyện Buôn Đôn không thụ lý đơn khởi kiện. Ngày 13-2-2015, TAND huyện Buôn Đôn triệu tập ông Y Bih Ađrơng, ông Siu Jel và bà H’Blun Niê đến sửa chữa, bổ sung hồ sơ khởi kiện nhưng các đương sự không hợp tác mà bỏ về.

Đến ngày 27-4-2015, TAND huyện Buôn Đôn tiếp tục triệu tập ông Y Bih Ađrơng, ông Siu Jel và bà H’Blun Niê và mời lãnh đạo UBND huyện Buôn Đôn, UBND xã Ea Nuôl đến giải quyết yêu cầu khởi kiện và đơn khiếu nại của các hộ dân nói trên. Tại buổi làm việc này, các đương sự là ông Y Bih Ađrơng, ông Siu Jel và ông Y Thanh Ka Niê là người đại diện theo ủy quyền cho 89 hộ dân thống nhất thỏa thuận giải quyết như sau:

UBND xã Ea Nuôl có trách nhiệm chi trả 60% trong số tiều đã thu được là 260 triệu đồng cho các hộ dân có đất ở đồi 330. UBND xã Ea Nuôl có trách nhiệm thông báo theo định kỳ 6 tháng/lần việc thu hồi 3% sản phẩm cà phê nhân hằng năm cho các hộ dân, đến khi chấm dứt hợp đồng vào năm 2045. Các đương sự là ông Y Bih Ađrơng, ông Siu Jel và bà H’Blun Niê có trách nhiệm lập hồ sơ, danh sách chính xác các hộ dân liên quan đến việc nhận sản phẩm cà phê liên kết theo Quyết định 1412. Ông Y Bih Ađrơng, ông Siu Jel và ông Y Thanh Ka Niê cam kết không tiếp tục khiếu nại, tố cáo sự việc nêu trên.

Tòa soạn

 


Ý kiến bạn đọc


(E-magazine) Kiến tạo kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Đắk Lắk không chỉ nằm trong khu vực có hệ sinh thái tự nhiên phong phú, đa dạng phù hợp cho phát triển nông nghiệp, mà còn là địa phương có đến 49/53 dân tộc thiểu số cùng sinh sống. Đây là lợi thế cạnh tranh rất lớn cho tỉnh trong xây dựng và phát triển Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), tạo dựng nền nông nghiệp giàu bản sắc, kiến tạo kinh tế vùng nông thôn vững mạnh, tạo cú hích nâng tầm giá trị cho nông sản địa phương vươn ra thị trường trong và ngoài nước.