Multimedia Đọc Báo in

Cuộc tập kích Hà Nội bằng B52 bị “bắt bài” ra sao?

05:47, 14/12/2012

Theo Nhật ký Haldeman, ngay trước chiến dịch Linebacker II, bất chấp những hục hặc, Kissinger đã tán thưởng Tổng thống Mỹ Nixon về quyết định ném bom hủy diệt Hà Nội là “thượng sách”. Kissinger cho rằng Nixon sẽ công thành danh toại nhờ những “hành vi thú tính không thể đoán trước”…

Nhưng gần bốn thập kỷ sau, tác giả các bài báo nổi tiếng từ những năm 70 của thế kỷ 20, về Linebacker II (chiến dịch đánh phá Hà Nội, Hải Phòng bằng không quân chiến lược Mỹ 12 ngày đêm cuối năm 1972) là Dana Drenkowsky và Lester Grau đã công bố nghiên cứu của mình về chủ đề này với nhan đề “Rập khuôn và đoán trước được”, phân tích các đánh giá của các phía về chiến dịch Linebacker II. Công trình được xem như tổng hợp các góc nhìn từ ba phía rọi vào đoạn kết cuộc chiến trên bầu trời Hà Nội vào cuối năm 1972.

Những  khẩu đội pháo  cao xạ  bảo vệ  bầu trời  Hà Nội. Ảnh:  T.L
Những khẩu đội pháo cao xạ bảo vệ bầu trời Hà Nội. Ảnh: T.L

Các tác giả Dana Drenkowsky và Lester Grau cho hay, Bộ chỉ huy Không quân chiến lược Mỹ (SAC) “mắc những sai lầm nghiêm trọng, chịu những tổn thất nặng nề trong một chiến dịch được xem là thất bại”.

Đòn tập kích không gây bất ngờ

Hôm nay nhìn lại, các tác giả từng là cựu phi công Mỹ như Dana Drenkowsky, E. Tilford và cả M. Marshall về cơ bản nhất trí với các cựu chuyên gia Liên Xô, như Thượng tướng, Giáo sư, Tiến sĩ A. Hiupenen, rằng trong một quyết định chiến tranh dốc toàn lực (all out – ý nói sử dụng một quy mô lực lượng lớn) như Linebacker II, huy động toàn bộ sức mạnh không quân của Mỹ, nhưng lại sử dụng các sơ đồ ném bom và các đường tiếp cận vào đánh phá khu vực trung tâm đồng bằng Bắc Bộ đã biến thành “lối mòn”, bởi các máy bay ném bom chiến thuật của Mỹ (đội hình đi đánh phá, kể từ giữa năm 1972 đã xuất hiện cả B-52, thường thưa hơn, mỏng hơn so với Linebacker II) trong suốt 6 năm liền kể từ đầu chiến tranh phá hoại đường không chống miền Bắc. “Việc Mỹ vẫn sử dụng các thủ đoạn tác chiến, trình tự bay cố định, cho phép Việt Nam dân chủ cộng hòa có thể phòng thủ tốt hơn, thậm chí là thành công, chống lại cuộc đại không kích Linebacker II, tháng 12-1972”…

“Kế hoạch của Không lực Mỹ là tỉ mỉ, chu đáo, nhưng rất dễ bị đoán ra, buộc đội hình máy bay Mỹ tuân thủ biểu đồ chiến dịch mẫu... Cất cánh, hành trình bay, tác chiến điện tử, hoàn thành thời gian bay dự kiến đều đoán trước được. Các chiến thuật đánh phá là cố định nên đối phương dễ nắm bắt. Công nghệ của Mỹ tạo ra một mức độ khó khăn cho Bắc Việt, nhưng cách áp dụng lại vẫn là có thể dự đoán được. Chính công nghệ cao nhưng mang tính dự đoán được của Mỹ đã giúp cho Bắc Việt chống trả hữu hiệu”.

Chính Mỹ bị bất ngờ

Các chi tiết gây bất ngờ về chiến dịch, chiến thuật cho phía Mỹ gây tốn kém giấy mực. Chẳng hạn, các nguồn Mỹ cho rằng bộ đội phòng không Việt Nam đã bắn khoảng 1000 quả đạn tên lửa SAM-2 trong toàn Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không”, tuy nhiên, kết toán của Liên Xô về hạng mục này khẳng định chỉ có 244 quả tên lửa đã được bắn. Để phát hiện những tốp F-4 phát nhiễu đóng giả đội hình B-52, các trắc thủ Việt Nam làm động tác phóng tên lửa giả và những “quả đạn giả” này hẳn đã làm thiết bị của Mỹ đếm lầm…

Loại B-52 được cải tiến nhằm che mắt các ra-đa hiện đại hơn của đối phương, theo tác giả E. Tilford, bất ngờ mất tác dụng, vì chúng (B-52G “đời mới”) bị phát hiện bởi những ra đa “cổ lỗ” thuộc thế hệ đầu nhưng vẫn được “giữ tốt dùng bền”, bên cạnh các trang bị tác chiến điện tử hiện đại khác, nhờ những “bàn tay vàng”, tinh thần vượt khó, tính cần kiệm và óc sáng tạo của bộ đội Việt Nam (nhận định của chuyên gia Liên Xô, một số tác giả phương Tây).


Hệ thống  phòng không S-75  trong trận “Điện Biên Phủ trên không”  (1972)  đã bắn rơi nhiều máy bay B-52 của Mỹ. Ảnh:  T.L
Hệ thống phòng không S-75 trong trận “Điện Biên Phủ trên không” (1972) đã bắn rơi nhiều máy bay B-52 của Mỹ. Ảnh: T.L

Còn cả những bất ngờ vượt xa cấp chiến thuật là Mỹ đã phát hiện những thông tin chiến dịch của Linebacker II đã bị đối phương biết được, hoặc giải mã… Theo tác giả Drenkowsky, đó là do xu thế người dân Mỹ, tới năm 1972, xem cuộc chiến tranh Việt Nam là phi nghĩa, tất dẫn đến chiến bại. Kết quả là nhiều rò rỉ đã xuất hiện trên báo chí ở Mỹ, thậm chí xảy ra trao bí mật cho phía đối phương (như vụ bắt một nhân viên của Cục cơ yếu Hải quân Mỹ).

Nhưng bất ngờ lớn nhất với Mỹ, mà đến nay các nghiên cứu quốc tế chưa nêu bật được, là những cuộc vây bắt “hung thần” B-52 ngay từ năm 1966 khi “rồng lửa” đã mang cả đội hình chiến đấu cấp trung đoàn vào tận các tọa độ lửa ở Khu 4 và Trường Sơn để xây dựng cơ sở cho một chiến lược “đánh B-52”, bất chấp những quan ngại của nhà sản xuất tên lửa SAM về bảo đảm kỹ thuật – hậu cần… Trí óc và sự quả cảm không tả xiết trong kỳ công “vào hang bắt cọp” (chữ dùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh) này sẽ chín muồi thành cuộc “nghênh tiếp dữ dội” đầy bất ngờ trên bầu trời Hà Nội dành cho không quân Mỹ năm 1972.

Địa ngục trên khoảng trời hẹp

Sự chủ quan của SAC, theo các nhà quan sát của các bên, là do Mỹ đã vận dụng các tiện ích mới nhất để gây nhiễu trên toàn dải đối với ra đa của Việt Nam, đưa đến kết quả là các đợt đánh phá Hải Phòng giữa năm 1972, bộ đội tên lửa đã không bắn hạ được B-52 Mỹ. Nói chung, như Prados đã chỉ ra, “các nguyên soái không quân Mỹ chắc mẩm vũ khí của họ sẽ làm việc như được quảng cáo”. Tới nửa cuối năm 1972 ấy, thần tượng B-52 vẫn sừng sững, còn SAM-2 “cổ lỗ” do Liên Xô sản xuất, về mặt tính năng được xem là khó có thể bắn hạ B-52.

Sự kiện chiếc B-52 bị Không quân Việt Nam bắn hỏng tháng 11-1971 càng làm tăng sự chú ý đối với MIG-21 được Liên Xô thiết kế chuyên để đánh B-52. Nhưng MIG-21 chỉ được trang bị hai quả tên lửa, khó mà chọc thủng hàng rào dày đặc các F-4 tháp tùng B-52.

Cho đến tháng 11-1972, khi chiếc B-52 đầu tiên bị SAM bắn rơi trên bầu trời Nghệ An, vẫn nhiễu tin, rằng chiếc B-52 này bị MIG bắn rơi, hoặc thậm chí rơi vì trục trặc kỹ thuật…

Vì thế lực lượng không quân chiến thuật Mỹ được lệnh vây hãm các sân bay của miền Bắc, thậm chí “trực” trên không trung, để tập trung đánh các MIG vừa cất cánh, hoặc bay về sau khi tác chiến.

Sụp đổ thần tượng

Đòn phủ đầu với ba B-52 bị SAM bắn rơi tại chỗ, hai chiếc nữa bị bắn hỏng nặng ngay đêm đầu (số liệu của Mỹ) đã làm các nguyên soái Không quân Mỹ bị choáng váng. Tin này có vẻ đã bị giấu nhẹm, vì đến ngày 20-12 (sáu B-52 bị bắn rụng, một chiếc khác bị hỏng nặng, vẫn theo số liệu của Lầu Năm Góc mà nhiều học giả Mỹ cho là không đáng tin) mới xuất hiện các ghi chép của Chánh văn phòng Nhà Trắng về sự “đau lòng nhức óc” của Tổng thống Nixon trong một Nhà Trắng như tối sầm dưới sức đè những tổn thất quá lớn về B-52. Đâm lao phải theo lao, Nixon ra lệnh tiếp tục ném bom, nhưng ở quy mô nhỏ hơn và chuyển hướng không kích ra ngoài Hà Nội để tránh SAM-2. Đến đây đã có thể xem Linebacker II đã thất bại về chiến lược, tan ảo mộng chiến thắng, giúp làm nguội cái đầu nóng của ông chủ Nhà Trắng. Tác giả Drenkowsky viết: “Đêm 22 rạng ngày 23-12, trên đà thắng của bộ đội phòng không Hà Nội, không một cuộc không kích nào nhằm vào mục tiêu chính là Thủ đô của Việt Nam. Thay vào đó, 30 chiếc B-52 tiến công Cảng Hải Phòng, nơi được bảo vệ về phòng không kém hơn”.

Không quân Mỹ sau ngày Noel tỏ ra biết thay đổi chiến thuật và kế hoạch không kích, thực ra là rút ngắn thời gian không kích và đánh phá các địa bàn xa Hà Nội, nhưng máy bay Mỹ vẫn tiếp tục bị bắn rụng như sung. Thậm chí, B-52 rơi không phải do một salvos (loạt đạn tên lửa) mà chỉ do một quả SAM-2 “đồ cổ” trên bầu trời Sơn La.

Sách báo thời chiến của Mỹ ghi nhận một sự suy sụp về tinh thần chưa từng có trong các đơn vị Không quân Mỹ. Một đỉnh điểm của nó là có tới 9 chuyến bay B-52 bị đình chỉ đêm 26 rạng ngày 27-12, do trục trặc “cơ khí”. Đây là những “vết thương” từ các cuộc “dạo chơi” những đêm trước trên bầu trời Hà Nội, hay còn cả những cảm nhận “mở nắp buồng lái như mở cửa nhà mồ” của các tay lái “Pháo đài bay”?

Bất ngờ vẫn tiếp tục sau khi Mỹ đã tuyên bố chấm dứt ném bom miền Bắc vào đúng ngày cuối cùng của năm dương lịch 1972, vài B-52 sẽ còn bị SAM-2 bắn rụng tiếp trên chiến trường nam vĩ tuyến 20, cách xa các đầu mối tiếp tế - bảo dưỡng.

Chôn vùi mộng xâm lăng

Theo hồi ký Kissinger, ngày 6-1-1973 Nixon đã chỉ thị cho Kissinger trở lại Paris, phải đạt cho được một giải pháp dù đối phương đưa ra những điều kiện nào, với bộ dạng hoàn toàn khác ngày thường (ý nói không còn tỏ ra hùng hổ được nữa). Tổng thống Mỹ nhấn mạnh sẵn sàng chấp nhận trở lại văn bản đã thỏa thuận tháng 10-1972. Chiến dịch mang tên Linebacker II (tạm dịch: người cứu bóng trước khung thành) quả là một quyết định thú tính đầy bất trắc trong mắt nhân loại, nhưng chịu thất bại vì đã bị Việt Nam “bắt bài”.

            (Theo Sự kiện & Nhân chứng)


Ý kiến bạn đọc