Multimedia Đọc Báo in

Những câu chuyện huyền bí về người lính Hải đội Hoàng Sa năm xưa trên đảo Lý Sơn

17:13, 26/08/2013

Hơn 300 năm đã qua đi, người dân huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) - vùng đất tiền tiêu phên giậu của Tổ quốc - vẫn không thể nào quên được những ngày tháng oai hùng của Hải đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải năm xưa đã giong thuyền, cưỡi sóng vượt biển khơi muôn trùng xây khát vọng lớn, gìn giữ bờ cõi thiêng liêng của Tổ quốc. Biết bao người đã vĩnh viễn nằm lại với đất mẹ Hoàng Sa thiêng liêng và để lại nỗi ám ảnh, day dứt khôn nguôi cho người ở lại với những nấm mồ, ngôi mộ gió không tên, không người…

Khao lề thế lính là tục lễ tế người sống

Hằng năm, vào ngày 16-3 âm lịch, nhân dân trên đảo Lý Sơn lại long trọng tổ chức Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa nhằm tưởng nhớ và tri ân công lao những người lính Hoàng Sa năm xưa đã anh dũng hy sinh và mãi mãi nằm lại với biển cả. Nhân dân trên khắp huyện đảo đã đắp nên các nấm mộ gió và lập đền “Âm linh tự và Mộ lính đội Hoàng Sa” là nơi phối thờ các chiến sĩ và binh phu Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải.

Tái hiện lễ xuất quân của những hùng binh năm xưa  tại Lễ Khao Lề Thế Lính Hoàng Sa.
Tái hiện lễ xuất quân của những hùng binh năm xưa tại Lễ Khao Lề Thế Lính Hoàng Sa.

So với các lễ hội khác của ngư dân miền biển khu vực miền Trung, Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa không chỉ dừng lại ở giá trị tín ngưỡng tâm linh mà trên hết là dịp để người con của xứ sở bày tỏ lòng thành với mẹ Biển Đông. Sự cuốn hút kỳ lạ của lễ hội phải chỉ những nghi thức, nghi lễ, tập quán, những hội chơi dân gian mà là ý nghĩa và giá trị cộng đồng sâu sắc.

Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa được xem như lễ tế người sống hiếm hoi trên thế giới. Tục hiến tế người còn sống là phong tục truyền thống của cư dân vùng Trường Sa - Tây Nguyên của Việt Nam, mà ngày nay còn dấu tích về lễ hội đâm trâu. Thời đó, trước khi xuất binh, mỗi người lính Hoàng Sa đều được nặn một hình nộm - hình nhân thế mạng tượng trưng. Sau đó, làng sẽ cử một vị có chức sắc, có uy tín trong làng để làm lễ tế thần. Người dân gọi người này là thầy phù thủy (hay thầy pháp). Thầy sẽ làm chủ lễ cúng bái, truyền đạt thông tin, gửi gắm những thông điệp của người dân đến thần linh, đến mẹ biển cả thông qua tù và (bằng ốc biển) để thổi linh hồn vào các hình nhân, dẫn dắt, tiễn đưa các hình nhân đi ra ngoài biển khơi để chịu những cơn thịnh nộ, giận dữ của biển. Tiếp đó, những người thân và dòng họ sẽ mời thầy pháp đến làm hình nhân cho từng người lính Hoàng Sa, rồi lấy hình nhân đem chôn xuống đất, sau đó đắp những ụ đất cát cao xung quanh đảo. Theo người dân xứ đảo quan niệm, có như vậy thì linh hồn những người lính Hoàng Sa tử nạn sẽ trở về với người thân.

Khi chết binh phu được bó xác thả trôi biển

Theo những ghi chép trong các thư tịch cổ Việt Nam và các dòng họ sinh sống lâu đời trên đảo Lý Sơn, hằng năm, vua chúa nhà Nguyễn đều tuyển chọn 70 dân đinh khỏe mạnh, cường tráng, giỏi tài thao lược khi đi biển và thành lập một đội quân Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải để ra quần đảo Hoàng Sa làm nhiệm vụ cao cả. Hành trang họ mang theo trên 5 chiếc ghe câu ra biển là 6 tháng lương thực, 1 đôi chiếu, 7 nẹp tre, 7 sợ mây buộc dài và 1 thẻ bài ghi rõ danh tính, bản quán và phiên hiệu. Biết bao người con Lý Sơn đã ra đi không hẹn ngày về. Bù lại đó, triều đình sẽ ưu ái cho những gia đình binh phu đi lính Hoàng Sa được miễn thuế hằng năm, được trợ cấp lương thực như: gạo, muối, nước uống..., kèm theo đó còn được làng cấp cho quỹ đất trồng hành, tỏi.

Ông Nguyễn Cậu, Trưởng làng An Vĩnh cho biết, hành trang của người lính Hải đội Hoàng Sa năm xưa tuy giản đơn nhưng lại nặng tình với quê hương và thể hiện ý thức trách nhiệm với Tổ quốc. Họ biết, khi được tuyển chọn làm lính đi Hoàng Sa thì một đi không hẹn ngày về. Bởi vậy, hành trang của họ nhằm đề phòng khi trên đường giong thuyền ra Hoàng Sa nếu lỡ có người nào không may mất sẽ dùng để bó xác thả xuống biển và nhờ sóng biển đưa trôi dạt về lại đất mẹ Lý Sơn chôn cất và thờ cúng họ…

Những nấm mộ chiêu hồn

Khi đến với Lý Sơn, nhiều người không thể cầm được nước mắt khi lắng nghe những câu chuyện đầy xúc động về những hùng binh Hoàng Sa bên những ngôi mộ gió đứng dãi dầu trong mưa nắng. Đó chỉ là những ụ cát nhỏ có hình thang cân, thấp lè tè nằm rải rác, có phần khiêm nhường, ẩn mình trong những mẫu ruộng trồng hành, tỏi bạt ngàn. Phía đầu bao giờ cũng hướng mặt vào đất liền và đa số được đánh dấu bằng một hòn đá đen nhỏ thay cho văn bia. Cũng tùy vào độ tuổi, địa vị và thâm niên trong nghề đi biển mà mộ gió âm binh Hoàng Sa có kích thước, độ to nhỏ khác nhau. Người dân nơi đây gọi đó là những ngôi mộ gió chiêu hồn.

Chuyện kể về quá trình lập nên những mộ gió âm binh này cũng khá kỳ bí. Theo quan niệm của người dân xứ đảo, những người lính Hoàng Sa chết ngoài biển mà không tìm thấy xác thì “hồn bay phách lạc” nên linh hồn cứ mãi lẩn quẩn quanh ngoài biển, không được trở về với đoàn tụ với gia đình, tổ tiên. Do vậy người dân đã nghĩ cần phải lập đàn cúng bái rước hồn về. Ban đầu, người dân trên đảo thống kê danh sách những người đi lính Hoàng Sa không về và lập nên những hình nhân, kèm theo đó là làm những nấm mộ gió để đưa linh hồn người chết về yên nghỉ. Rồi kể từ đó, 13 dòng tộc trên đảo có người đi lính Hoàng Sa tiến hành lập danh sách và mời thầy phù thủy về cúng bái chiêu hồn và lập nên những ngôi mộ gió cho người thân như để làm tròn phận sự của người còn đối với người đã mất.

Để hoàn thành một ngôi mộ chiêu hồn lính Hoàng Sa phải trải qua nhiều công đoạn. Những hình nhân thế mạng được thầy phù thủy làm bằng đất sét đặc biệt tại vùng Giếng Tiền trên đảo. Đó là loại đất sét đặc dẻo quánh và nóng, khô cằn đến nỗi không có bất cứ loài thực vật nào mọc nổi được. Đất đem về trộn với bông gòn rồi giã cho đến khi đặc quánh mới thôi. Mỗi người hình nhân được làm theo tỷ lệ ứng với các con số như 1, 5, 7 – tương đương như số lượng hành trang mà người lính mang theo khi xuất binh. Ví dụ như thân hình nhân được làm 7 nẹp từ thân cây dâu. Cũng theo quan niệm, con tằm nhờ ăn lá dâu nhả tơ rồi đổi mà hồi sinh, đổi kiếp; vì vậy xương cốt hình nhân được làm bằng thân dâu cũng mang khát vọng về sự chuyển kiếp của con người…

Hà Kiều


Ý kiến bạn đọc


(E-magazine) Kiến tạo kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Đắk Lắk không chỉ nằm trong khu vực có hệ sinh thái tự nhiên phong phú, đa dạng phù hợp cho phát triển nông nghiệp, mà còn là địa phương có đến 49/53 dân tộc thiểu số cùng sinh sống. Đây là lợi thế cạnh tranh rất lớn cho tỉnh trong xây dựng và phát triển Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), tạo dựng nền nông nghiệp giàu bản sắc, kiến tạo kinh tế vùng nông thôn vững mạnh, tạo cú hích nâng tầm giá trị cho nông sản địa phương vươn ra thị trường trong và ngoài nước.