Multimedia Đọc Báo in

KỶ NIỆM 60 NĂM NGÀY KÝ HIỆP ĐỊNH GIƠ-NE-VƠ (20-7-1954 – 20-7-2014)

Thắng lợi vẻ vang của nền ngoại giao Việt Nam

14:28, 18/07/2014

LTS: Nhân dịp kỷ niệm 60 năm Ngày ký Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (20-7-1954 – 20-7-2014), Báo Dak Lak xin giới thiệu với bạn đọc về kết quả của Hội nghị Giơ-ne-vơ và ý nghĩa, những bài học kinh nghiệm từ quá trình đàm phán, ký kết Hiệp định (tài liệu do Ban Tuyên giáo Trung ương cung cấp). Trên cơ sở đó giúp cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ hơn những thắng lợi vĩ đại của nền ngoại giao nói riêng và cách mạng Việt Nam nói chung; từ đó tin tưởng vào sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng ta, phát huy tinh thần đoàn kết, kế thừa những bài học kinh nghiệm từ việc đàm phán, ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

I. Kết quả của Hội nghị Giơ-ne-vơ và ý nghĩa của Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam

1. Kết quả Hội nghị Giơ-ne-vơ 1954 về hòa bình ở Việt Nam, Đông Dương

Trải qua 75 ngày đàm phán gay go, căng thẳng, với 31 phiên họp, cùng rất nhiều cuộc gặp, tiếp xúc song phương và đa phương bên lề Hội nghị, cuối cùng các bên tham gia Hội nghị đã thỏa thuận và ký kết được các văn bản.

Kết quả của Hội nghị Giơ-ne-vơ 1954 về hòa bình ở Việt Nam, Đông Dương không đáp ứng được tất cả các yêu cầu và mục tiêu của Trung ương Đảng và Chính phủ đề ra lúc ban đầu như phân chia giới tuyến, thời hạn tổng tuyển cử, vấn đề vùng tập kết của các lực lượng kháng chiến Lào Itsala và Khmer Itsarak... nhưng nó phản ánh được tương quan lực lượng giữa ta và đối phương trong hoàn cảnh lúc đó, cả trên chiến trường lẫn trên bàn đàm phán.

a. Các văn bản được ký kết tại Hội nghị, gồm:

- Ba Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào, Campuchia;

- Một bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị;

- Hai bản tuyên bố riêng của đoàn Mỹ và đoàn Pháp ngày 21-7-1954;

- Các công hàm trao đổi giữa Phó Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng và Thủ tướng Pháp Mendes France.

Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam ký Hiệp định đình chiến ở Đông Dương tại Hội nghị Giơ-ne-vơ.  Ảnh: T.L
Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam ký Hiệp định đình chiến ở Đông Dương tại Hội nghị Giơ-ne-vơ. Ảnh: T.L

b. Những thỏa thuận đã đạt được

*Thỏa thuận chung cho ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia:

- Công nhận và tôn trọng các quyền cơ bản của nhân dân ba nước Đông Dương: độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước, không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi nước.

- Đình chỉ chiến sự trên toàn cõi Đông Dương.

- Pháp rút quân khỏi lãnh thổ ba nước. Quân tình nguyện Việt Nam rút khỏi Lào và Campuchia.

- Không có căn cứ nước ngoài và không liên minh quân sự với nước ngoài.

- Tổng tuyển cử ở mỗi nước.

- Không trả thù những người hợp tác với đối phương.

- Trao trả tù binh và người bị giam giữ.

- Thành lập Ủy ban Liên hợp Kiểm soát và Giám sát quốc tế.

*Thỏa thuận riêng với mỗi nước; trong đó các Hiệp định liên quan đến Việt Nam, gồm 4 nội dung chính:

- Những điều khoản về đình chỉ chiến sự và lập lại hòa bình: ngừng bắn, tập kết, chuyển quân được hai bên thực hiện trong thời hạn 300 ngày; chuyển giao khu vực, trao trả tù binh và thường dân bị giam giữ, đổi vùng, vấn đề mồ mả quân nhân hai bên tham chiến.

- Những điều khoản về duy trì và củng cố hòa bình ở Việt Nam: Lập giới tuyến quân sự tạm thời ở vĩ tuyến 17 và khu phi quân sự (Sông Bến Hải), vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời, không coi là ranh giới chính trị hay lãnh thổ, cấm tăng viện nhân viên quân sự, bộ đội, vũ khí và dụng cụ chiến tranh khác vào Việt Nam, cấm xây dựng căn cứ quân sự mới, cấm hai miền không được gia nhập liên minh quân sự nào, cấm sử dụng mỗi miền để phục vụ một chính sách quân sự nào.

- Những điều khoản chính trị: Vấn đề tổng tuyển cử để thống nhất đất nước, hiệp thương hai miền vào tháng 7-1955, tổng tuyển cử 7-1956, tự do chọn vùng sinh sống trong khi chờ đợi, không khủng bố, trả thù hay phân biệt đối xử với những người đã hợp tác với đối phương trong thời gian chiến tranh.

- Những điều khoản quy định việc tổ chức thi hành Hiệp định: Ủy ban Kiểm soát liên hợp, Ủy ban Giám sát quốc tế trung lập.

2. Nguyên nhân thắng lợi trong việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam

Thắng lợi trong việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam là thắng lợi vẻ vang của nền ngoại giao cách mạng non trẻ của nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á - Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Nguyên nhân hàng đầu quyết định thắng lợi cơ bản trên là do đường lối chính trị, đường lối quân sự và đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặc biệt quân đội và nhân dân ta đã đoàn kết nhất trí, chiến đấu anh dũng suốt 9 năm, giành thắng lợi của cuộc tổng tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 với đỉnh cao là chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ, buộc bọn đế quốc, thực dân phải ngồi vào bàn Hội nghị, cam kết chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, Lào và Campuchia.

Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc: Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta đã biết phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh quân sự, chính trị và sức mạnh ngoại giao tạo nên sức mạnh tổng hợp và thế chủ động trên bàn đàm phán, ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ.

Cuộc đấu tranh của nhân dân ta là chính nghĩa, được bạn bè quốc tế và các lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới ủng hộ, giúp đỡ, cổ vũ, góp phần tạo nên sức mạnh của thời đại cho thắng lợi của Hội nghị Giơ-ne-vơ 1954.

 Đội ngũ cán bộ ngoại giao có bản lĩnh chính trị vững vàng, ý thức được lợi ích và mục tiêu của dân tộc, có hiểu biết sâu sắc và trình độ học vấn uyên bác, linh hoạt, chủ động, sáng tạo, tự chủ trên bàn đàm phán, biết phân tích đánh giá tình hình chính xác và đã đạt được kết quả to lớn trong hoàn cảnh lịch sử lúc đó.

(Còn nữa)


Ý kiến bạn đọc


(E-magazine) Kiến tạo kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Đắk Lắk không chỉ nằm trong khu vực có hệ sinh thái tự nhiên phong phú, đa dạng phù hợp cho phát triển nông nghiệp, mà còn là địa phương có đến 49/53 dân tộc thiểu số cùng sinh sống. Đây là lợi thế cạnh tranh rất lớn cho tỉnh trong xây dựng và phát triển Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), tạo dựng nền nông nghiệp giàu bản sắc, kiến tạo kinh tế vùng nông thôn vững mạnh, tạo cú hích nâng tầm giá trị cho nông sản địa phương vươn ra thị trường trong và ngoài nước.