Multimedia Đọc Báo in

Nhộng chuồn chuồn hương vị từ núi rừng

06:10, 15/06/2025

Trong văn hóa ẩm thực của đồng bào các dân tộc bản địa Kon Tum như Ba Na, Xê Đăng, J’rai có một món ăn “độc, lạ” mà nếu chỉ nghe tên không ít người sẽ rùng mình: nhộng chuồn chuồn.

Với đồng bào dân tộc thiểu số ở Kon Tum, nhộng chuồn chuồn là món ăn có từ những tháng ngày khó khăn, khi lúa chưa vào mùa gặt, khi muối, cá, thịt đều thiếu, chính nhộng chuồn chuồn là nguồn đạm quý giá, là “thịt rừng” của trẻ em vùng cao.

Hơn thế, trong các dịp lễ hội dân gian như: lễ mừng lúa mới, lễ cúng Yàng (thần linh)…, nhộng chuồn chuồn như một món quà dâng lên thần Rừng, thần Nước. Ngày xưa, ai bắt được nhiều nhộng nhất trong làng được xem là người may mắn, sẽ có mùa màng bội thu.

Nhộng chuồn chuồn sau khi được chế biến.

Khi những cơn mưa rào đổ xuống núi rừng, cũng là lúc hàng nghìn con chuồn chuồn non bắt đầu nở mình từ những vũng nước, ao hồ, ruộng lúa. Đồng bào các dân tộc bản địa, đặc biệt là thanh niên và trẻ em thường mang theo những dụng cụ rất đơn sơ như rổ tre, vợt lưới hoặc đơn giản chỉ là đôi bàn tay khéo léo, men theo bờ suối hoặc đầm lầy để bắt nhộng chuồn chuồn. Già làng A Yưi (thôn Kon Klor, xã Đăk Rơ Wa, TP. Kon Tum) chia sẻ: “Bắt nhộng phải khéo, không là làm vỡ mất thân nhộng, mất ngon. Con nhộng chuồn chuồn mập, trắng ngà, mình mềm như con nhộng tằm nhưng vị lại béo hơn, thơm hơn, ít tanh”. Trung bình một buổi sáng, một người có thể bắt được 300 - 500 gram nhộng đủ cho một bữa ăn của gia đình.

Không như nhiều loại côn trùng khác có thể nấu ngay, nhộng chuồn chuồn cần sơ chế rất kỹ để bảo đảm an toàn thực phẩm cũng như giữ nguyên vị ngọt tự nhiên. Sau khi bắt về, nhộng được ngâm vào nước muối loãng pha cùng nước gừng để khử mùi và làm sạch. Cần thay nước nhiều lần để “làm trong” nhộng. Sau khoảng 30 phút, nhộng được vớt ra, để ráo nước trước khi đem chế biến.

Bà Y Thanh, một người chuyên chế biến món nhộng chuồn chuồn cho biết: “Làm món này không vội được. Phải rửa cho sạch, rồi để cho nhộng tự tiết bớt nước, như vậy khi xào mới giòn, mới thơm”. Có nhiều cách chế biến nhộng chuồn chuồn nhưng phổ biến nhất là xào với lá chanh, ớt rừng hoặc sả, ớt. Một số gia đình có thể rang khô để ăn dần, hoặc nấu cháo nhộng với gạo nếp rẫy, món ăn được xem là đại bổ, nhất là cho người già và trẻ nhỏ.

Trong căn bếp nhà sàn khói nghi ngút, tiếng mỡ sôi lách tách quyện với hương thơm của sả, của lá chanh thái chỉ, từng con nhộng chuồn chuồn vàng ruộm, căng mọng dần dần se lại trong chảo nóng. Khi ăn, vị béo ngậy lan tỏa nhưng không hề ngấy, lại phảng phất chút ngọt của đất trời, cái bùi bùi của rừng núi. “Nếu ai đã từng ăn thử, sẽ khó quên được. Tôi vốn sợ côn trùng, nhưng món này ăn rồi lại thấy như đang nếm thứ gì đó rất thân thuộc, rất thiên nhiên, lôi cuốn vô cùng”, chị Lê Thị Thắm (35 tuổi, một du khách đến từ TP. Đà Nẵng) chia sẻ sau khi thưởng thức món nhộng xào sả, ớt tại chợ đêm huyện Kon Plông (tỉnh Kon Tum).

Hiện nay nhộng chuồn chuồn trở thành một đặc sản lạ và quý, hấp dẫn khách du lịch ưa khám phá ẩm thực địa phương. Một số homestay tại Măng Đen (huyện Kon Plông) và TP. Kon Tum đã bắt đầu đưa món nhộng chuồn chuồn vào thực đơn đặc sản theo mùa, phục vụ du khách nội địa và cả khách nước ngoài. Tuy nhiên, để phát triển bền vững, chính quyền địa phương cần có sự hướng dẫn khai thác hợp lý, tránh tận diệt chuồn chuồn trong tự nhiên, đồng thời nghiên cứu nuôi nhân tạo nhộng chuồn chuồn để cung cấp đủ bốn mùa trong năm, đáp ứng nhu cầu của du khách.

Hậu Văn


Ý kiến bạn đọc