Có một kỳ quan hơn cả mây trời...
Chúng tôi vừa trở lại và đi một vòng mấy tỉnh vùng cao Tây Bắc. Đã hơn ba tháng sau khi núi rừng nơi đây chìm trong thiên tai của hoàn lưu bão Yagi.
Ba tháng, thời gian khẩn cấp nhưng đủ để những người lính của Binh đoàn 12 xây xong khu tái định cư cho người dân thôn Làng Nủ, xã Phúc Khánh, huyện Bảo Yên (tỉnh Lào Cai). Những nụ cười đã thấp thoáng trên gương mặt người dân và bên những ngôi nhà sàn mới dựng, những luống hoa đã trổ bông mang lại niềm vui tươi mới.
Không chỉ Lào Cai, qua Yên Bái, Cao Bằng, Lai Châu, Sơn La…, chúng tôi đều nhận ra sức sống kỳ diệu và mãnh liệt của Tây Bắc, cho dù những mái núi nhấp nhô trong mây trắng giờ đây có những mảng rừng bị sạt, lộ ra màu đất khô xám. Những ngọn núi của Tây Bắc chính là niềm đam mê bất tận của những ai lỡ đem lòng yêu thiên nhiên nơi đây. Nhưng rồi trải qua những trận thiên tai, kỳ quan thiên nhiên bị phá vỡ thì liệu có gì còn lại? Còn điều gì đẹp đẽ và lộng lẫy hơn những kỳ quan kia?
Tôi chợt nhớ câu nói của con gái mình mấy năm trước sau khi cháu vừa tốt nghiệp đại học ngành du lịch và được bố cho “bám càng” theo một chuyến công tác lên với Dào San, Sì Lở Lầu…, những đồn biên phòng trên tuyến Phong Thổ (Lai Châu). Sau chuyến đi, tôi hỏi: “Sao con mới đi với bố một chuyến công tác mà đã hiểu được “cái lý người Mèo” (như cách chúng tôi vẫn giải thích một vấn đề gì liên quan đến Tây Bắc đều dùng khẩu ngữ ấy “cái lý người Mèo ta”)?”, con gái tôi bảo: “Vì con vừa nghe một cuộc điện thoại”…
Tác giả và những gương mặt rẻo cao. |
Hóa ra cuộc điện thoại ấy là của một chàng lính biên phòng trẻ, mới 20 tuổi. Bữa cơm ở đồn biên phòng, cậu lính trẻ người Hà Nhì sau khi biết tuổi con gái tôi đã gọi bằng chị rất lễ phép và trong cuộc điện thoại sau đó, cậu chỉ nhắc: “Chị ơi, chị nhớ ăn cơm nhiều vào cho khỏe nhé”. Con gái tôi bảo: “Con chơi với bao nhiêu bạn bè, gặp gỡ cũng nhiều người, đi bao nhiêu quê xứ… nhưng chưa ai dặn con “ăn nhiều cơm vào cho khỏe” như chàng lính người dân tộc Hà Nhì ấy!”. Một lời nhắc, một mối quan tâm giản dị mà chứa đựng cả một tấm tình chân thật đến nao lòng!
Và tôi cũng giật mình, hóa ra kỳ quan Tây Bắc không chỉ là núi đèo, mây gió hút hồn con người ta. Cái tình người trên chập chùng mây trời này còn tinh khôi nguyên đán hơn cả những kỳ quan cổng trời hay thác bạc, vút cao và bát ngát. Cái tình người chân thật không màu mè ấy mới thực sự là một hấp lực không kém gì những mùa hoa quyến rũ đến ma mị, hơn những gọi mời từ thăm thẳm dốc mây…
Nghe nhận xét của con gái, tôi lật đật lục lại “tàng thư”- những cuốn sổ tay ghi chép mười mấy năm trước lần đầu lên Tây Bắc. Hóa ra cảm xúc cũng từa tựa như thế. Đó là những người đàn ông say ngủ sau phiên chợ ở mô đá ven đường, người vợ ngồi cạnh chờ chồng tỉnh dậy, bàn tay vẫn nhẫn nại với vuông vải thêu hoa văn thoăn thoắt. Đó là những bạn bè từ bản này bản nọ cùng gặp nhau ở chợ. Rời phiên chợ, khi đến một ngã ba nào đó để rẽ về bản mình, có người lại móc từ sau gùi ra chai rượu ngô trong veo, bên mỏm đá ngã ba, cùng nhau làm vài chung chia tay rồi ai về bản nấy. Đi thêm một thôi đường nữa, lại đến ngã ba, lại có người rẽ lối về bản khác. Lại mang chai rượu ngô trong veo ra, và cụng chén chia tay nhau đầy khinh khoái, giữa mây trời đang ấp iu nhau dưới lũng.
Ngày xuân ở Mù Cang Chải. Ảnh: Trần Trung Hiếu |
Cứ thế, người cuối cùng sẽ về lúc nào không ai biết, nhưng trên những con đường lởm chởm đá tai mèo ấy, tôi không nhớ mình đã dự bao nhiêu cuộc rượu tình cờ ở ngã ba như thế. Rồi tôi ghi vào nhật ký công tác của mình, rằng lên đây con người trong veo như ly rượu ngô, nồng nàn như ly rượu ngô, ấm áp như ly rượu ngô… Chỉ vì ở đây, trên núi đồi biên viễn, trên mây trời ải Bắc này không ai biết tới thị trường chứng khoán, không đau đầu lao theo các chỉ số đỏ xanh, không quan tâm giá đô la, giá vàng, không ủ mưu ghế này ghế nọ… Có phải thế chăng mà mỗi lần lên đây lại thấy “đời nhẹ như mây khói” nói theo kiểu ông Trịnh Công Sơn. Không nhớ hết chúng tôi đã bao nhiêu lần thấy mình nhẹ bẫng như thế giữa mây, giữa núi. Thiên nhiên như thế, không gian như thế, con người như thế… nên chi cứ về tới phố lại nhớ non ngàn.
Có một lần chúng tôi lên với dân tộc Pu Péo ở Đồng Văn (Hà Giang). Giữa bạt ngàn núi đá, nếu người H’Mông có thể “sống trên đá, chết vùi trong đá” thì người dân Pu Péo sống không thể thiếu rừng. Ở đâu có cộng đồng Pu Péo, ở đó có những cánh rừng còn lại. Hằng năm lễ cúng thần rừng được diễn ra trang trọng theo luật tục. Và nếu bất cứ ai xâm hại đến rừng, hình phạt của bộ tộc sẽ còn cao hơn những hình phạt pháp lý. Những ngày lang thang qua các bản làng của dân tộc Pu Péo, tôi nhận ra cách mà họ tôn trọng Mẹ thiên nhiên - tôn trọng cánh rừng già trên cao nguyên đá này - phảng phất tinh thần của những cư dân xứ Bhutan mà tôi đã từng gặp, đó là sự tôn trọng gần như sùng bái với thiên nhiên. Vào những nhà dân Pu Péo, tôi thấy như mình “lạc trôi” về đâu thế kỷ trước, thuở trái đất chưa bị ô nhiễm, lòng người chưa ô trọc. Ghé nhà nào, bất cứ buổi nào, chỉ cần khách đến, chủ nhà đã lễ mễ bưng từ sau góc nhà ra cái chum nhỏ chứa rượu ngô. Phải cạn với nhau vài chén rồi hẵng nói tới công việc. Mà trên cao nguyên đá ấy, quanh năm sương giá se sắt, chén rượu mời nhau chính là cho nhau ấm lòng, ấm tình, và cứ thế mà trải lòng chia sẻ…
Trong gia tài dành dụm cho mình sau cả trăm chuyến đi Tây Bắc, tôi có rất nhiều những tấm ảnh chụp gương mặt người dân rẻo cao. Đều trong veo và thuần khiết. Hồn nhiên và cam chịu. Can trường và lãng mạn. Ông bà xưa đã đúc kết: “Người ta là hoa đất”. Những con người trên rẻo cao chạm với mây trời kia, nơi những bon chen thực dụng toan tính chưa chạm vào, nơi mỗi ngày chỉ cỏ hoa đá núi không bụi khói ô nhiễm, nơi một chén rượu mời nhau đã ắp đầy thương mến, chính những người dân đó mới là những bông hoa nhuần nhị của đời. Và chính sự sáng trong nhuần nhị đó đã làm nên sức mạnh để tồn tại trước rừng sâu vực thẳm, làm nên sự can trường trước giông bão thiên tai.
Bản người Thái ở Khau Phạ. |
Và có một điều này mà tôi vô cùng tâm đắc, đó là trong những bạn cán bộ trẻ mười lăm, hai mươi năm trước là thủ lĩnh của Đoàn Thanh niên, sau này giữ những cương vị quan trọng trong bộ máy chính quyền, để được các đồng đội tôn vinh làm “thủ trưởng” thì trước hết phải có tố chất “thủ lĩnh”, điều mà tôi rất ít gặp ở miền xuôi, đó cũng là một khía cạnh riêng rất đặc thù.
Và chính những con người ấy, những gương mặt ấy, chứ không chỉ là những cung đường hoa nối mùa mới chính là lời mời gọi thôi thúc chúng tôi luôn coi Tây Bắc như một nơi chốn “thuộc về”, và thao thức lời gọi trở về. Con người Tây Bắc đấy mới là những “siêu kỳ quan”, bởi biết bao kỳ quan thiên nhiên có khi biến mất trước thiên tai nhưng con người Tây Bắc sau mỗi lần như vậy lại càng kiên cường hơn, sừng sững một nét người lẫm liệt!
Lê Đức Dục
Ý kiến bạn đọc