Sắc màu thổ cẩm Nam Tây Nguyên
Đầu tháng 9, bên hồ Xuân Hương, TP. Đà Lạt (tỉnh Lâm Đồng), nơi xưa thủy tổ đồng bào K’ho Lach cư trú, diễn ra chương trình văn hóa trang phục thổ cẩm kết hợp với lụa tơ tằm. Sôi động, sang trọng bởi tơ lụa, nhưng sâu lắng, dư âm về đại ngàn hùng vĩ phải là những sắc màu, hoa văn thổ cẩm.
Giàu tri thức, đậm tín ngưỡng
Trong số rất ít phụ nữ dân tộc thiểu số gốc Nam Tây Nguyên vinh dự được Chủ tịch nước trao tặng danh hiệu Nghệ nhân Ưu tú nghề dệt vào năm 2019 là Bon Niêng K’Glòng. Người phụ nữ K’ho ấy nay đã ngót 80 mùa rẫy nơi vùng đất Đưng K’Nơh, huyện Lạc Dương (Lâm Đồng). Bà là chủ nhân hiếm hoi của kho tàng tri thức dân gian đặc sắc về phương pháp nhuộm màu bằng nguyên liệu rừng. Tám người con gái của bà phần nào nối nghề dệt, nhưng thật không dễ khi phải đối diện làn sóng thương mại nghiệt ngã. Có chăng, trong vùng còn bạn đồng hành: bà Rơông Ka Măng, bà Rơông Ka Jồng.
Thổ cẩm chất chứa nhiều yếu tố văn hóa vật thể và phi vật thể. Với người K’ho, nghề dệt đúc kết chỉ 4 từ: rồi - riă - tiăh - tành, nghĩa là kéo chỉ - vào thoi - kết hai đầu khổ dệt - tiến hành dệt. Nhưng để có sợi từ cây bông rừng làm vải chẳng dễ, vì ít nguyên liệu nhiều công làm. Có sợi rồi, nhuộm ra đúng màu càng khó, dù chuẩn bị 2 - 3 tháng trời. Không phải mẻ nhuộm nào cũng thành công như mong muốn. Lá cây “t’rưm” ngâm ủ 5 ngày, vớt ra nắm lại thành cục, vắt nước vào quả bầu và lọc rót vào chóe. Tiếp tục, bỏ vào nước t’rưm các loại bột khô và quấy đều: củ cây chuối rừng, vôi sò, các hạt bầu, bí, bắp, ớt, muối. Khoảng một giờ, nước lắng, ngâm sợi vào phần sánh. Ngâm 4 - 5 lần trong một tuần, khi màu “ăn” đều đem phơi khô và tiếp tục ngâm lại màu. (Theo kinh nghiệm và tín ngưỡng, hỗn hợp này khi ngâm sợi sẽ phá được bọt đồng thời là “thức ăn” dâng Thần Màu).
Trang phục thổ cẩm trong lễ hội cồng chiêng. |
Thổ cẩm phải “dệt” bằng những đức tin thiêng. Theo bà K’Glòng, khi đi lên rừng để lấy cây tuyệt không cho người khác thấy. Nếu gặp suối phải đi qua không được nhổ nước bọt; nếu gặp con trăn hay con rắn thì phải quay về. Trong quá trình làm phẩm màu, không được ăn thịt mỡ, cơ thể phải sạch sẽ… Bà Ka Nier ở thôn Đam Pao, xã Đạ Đờn, huyện Lâm Hà cho biết, trong lúc điều chế nước nhuộm không được ăn thịt bò, thịt trâu và không cho người khác vào khu vực làm nước…
Giữa sàn nhà, bà K’Glòng và con gái út 35 tuổi Bon Niêng K’Gút mỗi người một khung dệt thoăn thoắt đôi tay. Họ miệt mài trong 12 thanh của khung dệt. Mỗi thanh có chức năng và tên gọi khác nhau: gạt chỉ (pơnớ kủatria), cuộn vải (pờsar), đạp chân (đưngpoong), luồn sợi (lột lâm pã), quấn sợi (tơcau brài), gạt chỉ (pờnớ)… Bằng trí tưởng tượng và bàn tay mềm mại, các hoa văn lần lượt hiển hiện: kỷ hà, zic zăc, con người, muông thú, cầu thang, cán xà gạc, con thuyền, mắt/cườm cổ con chim, bụng con thằn lằn…
Phong phú bảng màu thiên nhiên
Nghệ nhân K’Glòng ngừng vắt nắm lá, ngước nhìn tôi và nói: “Màu vàng này mình làm từ củ rơmêt (nghệ), còn cái màu xanh là từ lá cây t’rơtap (vông) đầu kia kìa. Màu đỏ thì cây “t’ri nho” mình trồng sau nhà… Nhưng làm lâu lắm. Mấy đứa trẻ nó chỉ dệt, nhuộm nó sợ dơ tay nên chỉ có bà già làm thôi”.
Bảng màu tri thức dân gian kết duyên từ nhiều bộ phận của thực vật: lá, thân, vỏ, rễ, quả, hạt và nhựa. Mỗi gam màu hiển thị theo từng nhóm các loài cây. Lá vông (t’rơ tạp) trộn với củ nghệ (rơmết) ra màu xanh lá cây; “t’ri nho” cho màu đỏ cam chú theo ngôn ngữ đồng bào; lá trâm (t’rưm) trộn gốc cây chuối rừng (bủzú bri) ra màu đen. Chàm muồng (Indigofera cassioides) cho màu chàm; “giang núi” (Ternstro-emia japonica) cho màu cam; “xoài rừng” (Mangifera longipes) cho màu xanh; “hoàng liên ôrô” (Mahonia nepalensis) cho màu vàng, chú theo danh pháp khoa học. Đó còn là chàm bụi, chàm đen, lòng mức ngờ (màu chàm); chuối rừng, dẻ trắng, lim sét, me rừng, trâm rộng, vối, thanh mai, thị Hayata (màu đen); mò trắng, chít, dong, trầu, xoài (màu xanh); dù dẻ, hợp hoan, mâm xôi, cẩm, nhàu, vấn vương (màu đỏ); cơm cháy, hương bài, mua (màu tím); dành dành, củ nghệ, vàng đắng, hoàng đằng, núc nác (màu vàng) và quế, ngược mùa, vừng (màu nâu)…, gọi theo danh từ phổ thông. Không rực màu như thổ cẩm các tỉnh phía Bắc, gam màu chủ đạo của thổ cẩm Nam Tây Nguyên là đen, chàm và trắng, mảng màu có phần nhàn nhạt để phù hợp với không gian cao nguyên gay gắt nắng nỏ.
Bảo tồn trước khi thất truyền
Ở Đưng K’Nơh, gia tộc Bon Niêng còn có người nối nghề nhưng ở buôn Đạ Nhar, xã Quốc Oai, nơi cuối cùng của huyện Đạ Tẻh chỉ mình bà Ka Ré dân tộc Mạ, trên 80 tuổi vẫn miệt mài với nghề dệt.
Xoãi chân giữa thềm, mắt không rời những sợi màu, bà chặc lưỡi: “Hồi xưa tự nhuộm hết, đẹp hơn giờ, màu đỏ thì cây “ồôi”; màu đen, màu xanh thì cây “dnir”. Nhưng giờ không có làm nữa, vì không có cái bông, không có cái lá nhuộm, tất cả không có hết, làm đại đi”… “Làm đại” nghĩa là sợi và màu mua từ chợ của người Kinh. Còn bà Ka Nier ở buôn Đam Pao, xã Đạ Đờn, huyện Lâm Hà vẫn đắm đuối với phương pháp truyền thống suốt hơn 9 thập niên qua. Bởi thế bà không giấu sự nuối tiếc về thời vàng son của đồng bào mình: “Khó nhất là làm nước nhuộm chỉ, rất ít người biết làm rồi”!
Thổ cẩm xuất hiện trong nghi thức “ăn trâu”. |
Quả là bảo tồn di sản văn hóa thật khó. Trong những góc buôn chỉ còn lác đác nghề dệt thổ cẩm. Những tấm thổ cẩm của bà Ka Ré có màu đỏ, đen, xanh, vàng, nâu nhưng chủ yếu màu trắng như vốn có của người Mạ. Hoa văn sáng tạo bằng cách hiểu, cách nghĩ truyền thống cộng đồng Mạ vừa mang tính ngẫu hứng cá nhân. Đặc biệt, hoa văn, họa tiết không chỉ dệt mà thêu tay không dùng đến kim. Sản phẩm độc đáo của thổ cẩm Mạ nhờ đó có phần dễ giao thương. Trong ngôi nhà nhỏ ở thôn Đạ Nghịt, xã Lộc Châu, TP. Bảo Lộc, bà Ka Rạ dù hơn 60 tuổi vẫn say sưa làm hàng. Nơi thị trấn Đạ Tẻh, nối nghiệp người mẹ đã mất, Ka Kầm đã vững nghề khi mới 22 tuổi để cùng người cha K’Ổn dựng xưởng mở shop tại nhà…
Thổ cẩm gắn với văn hóa và đời sống cư dân bản địa, nhưng sự hiện hữu của nó tại các nghi lễ thưa vắng dần. Để trở thành hàng hóa của ngành du lịch cũng chỉ là câu chuyện khơi khơi. Bởi, nó đã vơi nhiều về hồn cốt của mẹ Rừng, cha Núi. Màu sắc công nghiệp tuy đậm bền hơn, nhưng văn hóa truyền thống thì nhạt mờ. Tiến sĩ Lương Văn Dũng là người có nhiều thành tựu khoa học về tài nguyên rừng cho biết: “So với màu công nghiệp, màu của rừng đa dạng, sợi nhuộm mềm, khử được mùi, thấm mồ hôi tốt và thân thiện với con người. Dĩ nhiên, sản phẩm thổ cẩm truyền thống giá cao nên khó bán. Sợi và màu công nghiệp có cơ hội tràn vào vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là vùng gần các thị tứ”. Ở BunGo, huyện Cát Tiên, Phó Chủ nhiệm Hợp tác xã Thổ cẩm Cát Tiên là người đầu tư nguyên liệu sợi công nghiệp cho 25 hộ dân tộc Mạ dệt thổ cẩm cũng thừa nhận: “Khách nước ngoài sợ màu hóa chất ảnh hưởng sức khỏe nên thích mua màu của đồng bào. Đây là màu bền, giá cao gấp 4 - 5 lần, nhưng mất công nhiều nên đồng bào không làm”…
Văn hóa là tinh túy, chưng cất nhiều đời, là sàng lọc truân chuyên. Bảo tồn những giá trị văn hóa vì thế càng gian khó. Không chỉ là chủ thể các dân tộc thiểu số, mà còn rất cần thực hiểu, thực yêu của các nhà quản lý và bằng những chiến lược dài hơi và đồng bộ, mạnh mẽ và thực chất từ nhiều cấp nhiều ngành…
Tĩnh Xuyên
Ý kiến bạn đọc