Multimedia Đọc Báo in

Nhớ một thời miền cao nguyên đất đỏ

09:00, 16/02/2025

(Đọc bút ký “Không có chỗ an nhàn” của Võ Văn Hòe)

"Sẽ không kể cùng ai nỗi khó/ Dù bao năm trên cao nguyên đất đỏ/ Mà sẽ kể cùng ai nỗi nhớ/ Những buôn làng tên đất đã đi qua” - tác giả Võ Văn Hòe (nguyên Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian TP. Đà Nẵng các nhiệm kỳ 2007 – 2013 và 2014 – 2018) đã mở đầu tập bút ký “Không có chỗ an nhàn” (NXB Hội Nhà văn) của mình như vậy, để hồi tưởng về những tháng năm trai trẻ khi anh vừa tốt nghiệp Trường Cao đẳng Sư phạm Quy Nhơn về dạy học tại cao nguyên Đắk Lắk những năm đầu sau ngày thống nhất đất nước.

Sinh tại TP. Đà Nẵng, Võ Văn Hòe tốt nghiệp Trường Cao đẳng Sư phạm Quy Nhơn khóa 1 (1976 - 1977), sau đó đăng ký lên Đắk Lắk dạy học từ tháng 1/1977 đến tháng 8/1983 tại các trường ở thị xã Buôn Ma Thuột, huyện Krông Pắc… Trong tập bút ký “Không có chỗ an nhàn", qua hơn 200 trang sách, tác giả đã thể hiện những gì đọng lại trong tâm thức sâu sắc nhất, ấn tượng nhất, cảm xúc nhất… về một miền đất ngày nào còn rất hoang sơ, cần sự đóng góp xây dựng của những bàn tay năng nổ, không ngại khó của lớp trẻ từ mọi mặt.

 

 … Vào một chiều tháng 2/1977, 67 giáo sinh từ Trường Cao đẳng Sư phạm Quy Nhơn lần đầu đặt chân lên cao nguyên đất đỏ. Khi ấy, họ chưa hiểu nhiều về miền đất này, ngoại trừ các trang tư liệu về Tây Nguyên trong nhà trường. Họ chỉ biết rằng, ngành giáo dục sau 1975 đang phục hồi và phát triển quy mô về số lượng và chất lượng. Chủ trương của ngành là mở lớp tận buôn làng xa xôi, đặc biệt là các vùng kinh tế mới vừa được xây dựng, cụ thể hơn nữa: “Phải góp tay vào làm mọi chuyện đấy, vực giáo dục Đắk Lắk lên chứ không riêng gì lên lớp đâu”.

Nhân vật Hoàng trong tập bút ký phải lên xe thồ tìm về trường Ea Ti, tức Hoa Dung thuộc làng Trung, nơi mà người lái xe cho biết: “một nửa đường do mình kiểm soát, còn một nửa đường trong đó FULRO làm chủ, xe tôi không dám vào”… Tuy nhiên, với tinh thần tự nguyện, từ lần được nghe Anh hùng Đinh Hơ Núp và chú Y Ngông Niê Kđăm đến nói chuyện, động viên, kêu gọi giáo sinh nên lên Tây Nguyên xóa mù chữ cho con em trên ấy, Hoàng đã xốc ba lô lên vai, bước vào khoảng sân trường cỏ đan dày nhưng lại khô héo tự hồi nào. Cứ thế, thời gian dần trôi qua. Từ trên bục giảng nhìn xuống, Hoàng cảm nhận được hạnh phúc tràn đầy, thật giản dị và không thể nào ngờ những đôi mắt sáng nhìn lên ngơ ngác, đợi chờ. Đấy là hạnh phúc đầu tiên trên bục giảng. Rồi chuyện FULRO bắn phá, chuyện bệnh tật ở vùng núi non thiếu thốn thuốc men, thiếu nước sinh hoạt… Những mẩu chuyện buồn vui nho nhỏ như vậy, được tác giả kể lại dưới các tiêu đề thú vị như: Đến với cao nguyên, Dưới cành phượng vĩ, Chuyện đường rừng, Suối giáo viên, Trên nông trường Ea Knũl, Những trang thơ…

Trong con mắt của người thầy giáo trẻ ngày ấy, luôn đọng lại trong ký ức những hình ảnh không phai nhạt: “Trưa tháng sáu, nắng rọi vào rừng sâu, chim muông hối hả gọi nhau lẩn tránh cơn mưa giông xối xả, trút lá bẻ cành. Vậy là mưa rừng về, không hẹn. Từ tháng Ba, mùa con ong đi lấy mật, mùa làm nương chè, đất ươm ngô mưa đã về rồi, nói chi đến tháng Sáu này, là giữa mùa mưa nên mưa hãy còn trút xuống, rồi nắng lên. Cứ thế! Mấy ngày đầu lao động, chân tay ai nấy phồng lên. Rừng rậm, dày, gai mắc cỡ đan chằng chịt không khéo thì xước cả tay chân. Sau cơn mưa buổi trưa, đường đất khô quáng lại chạy dài chia hai trái đồi dốc đứng. Trên đường đi ra hiện trường hôm ấy, đâu đây tiếng hát gợi tình của mấy anh Êđê lại vang lên…” (tr.121). Hoặc: “Con dốc không cao nhưng lại dài hơn 500 mét, nước từ buôn Niệt, buôn Jung đổ về suối những khi có mưa lớn, tạo nên những đường rãnh sâu hoắm. Xa xa từ những nóc nhà dài của mgười Êđê đứng im lìm ngủ trong đêm vắng. Một vài người dân Êđê cần cù thăm rẫy đuổi thú rừng phá nương còn thức đến khuya. Một hòn than sáng hừng lên trong gió cứ di chuyển đều đều theo bước chân dài ra nương rẫy. Chốc chốc lại có tiếng mõ gõ gọn lỏn, sắc đục xoáy ngang vào trời đêm yên ắng. Tiếng rì rào của cây kơ nia, cây ké rờn rợn như đánh lạc bước chân người…” (tr.167).

Thế nhưng, vào một ngày cuối hạ, một chuyến xe ca tốc hành từ Buôn Ma Thuột đổ đèo Phượng Hoàng – M’Drắk xuôi về phố biển Nha Trang. Không ngờ lần đó tác giả rời đi và không quay lại Buôn Ma Thuột… Bởi sau lần đó, do bệnh tật liên miên, tác giả không còn cơ hội trở lại miền cao nguyên nắng gió nữa. Dù những buôn làng, tên đất đi qua vẫn hiện về trong trí nhớ của anh. Nơi ấy có làng Trung với từng căn phòng, lớp học với những khôn mặt quen thân Y Đi, H’reo, Y Bếch, Y Đo, H’Lững… Nhớ khu nhà nội trú, dãy hành lang mỗi lần chuyện vãn với bạn bè, đồng nghiệp. Sân trường, nước đọng, bụi bặm, đất đỏ dẻo sền…, để rồi không ngớt băn khoăn tự hỏi: “Khi nào trở lại làng Trung?”.

Trần Trung Sáng


Ý kiến bạn đọc