Nhà thơ Hữu Chỉnh - Hồn thơ quê hương
Nhà thơ Lê Hữu Chỉnh, bút danh Hữu Chỉnh, năm nay đã ngoài 80 tuổi nhưng vẫn đọc, viết và trò chuyện say sưa về thơ. Cả cuộc đời nhà thơ Hữu Chỉnh gắn bó với vùng đất Đắk Lắk, nơi ông cống hiến tuổi trẻ, thắp lên những ngọn lửa thi ca và gặt hái nhiều thành công đáng trân trọng.
“Gửi hồn thơ” đến những năm tháng Trường Sơn
Sinh ra trong một gia đình có truyền thống hiếu học, cha là người am tường cả chữ Hán lẫn tiếng Pháp, lại rất yêu thơ nên từ nhỏ, Lê Hữu Chỉnh đã được nuôi dưỡng trong bầu không khí văn chương, để rồi tình yêu thơ nảy nở tự nhiên. Nhưng phải đến năm 1960, khi đang theo học ngành Sư phạm Văn và tơ tưởng một nữ sinh cùng khóa, ông mới viết nên bài thơ đầu tiên mà mình tâm đắc: “Gửi hồn thơ”. Mối tình đầu không trọn vẹn ấy hóa thành “hồn thơ” vương vấn, trở thành nguồn cảm hứng theo ông suốt đời.
Năm 1972, Lê Hữu Chỉnh viết đơn tình nguyện theo đoàn của Ban Thống nhất Trung ương vào Nam công tác. Hành trình vượt Trường Sơn gian khổ kéo dài 102 ngày mới đến được căn cứ H9 (Krông Bông, Đắk Lắk), ông được phân công làm Trưởng Ban Giáo dục. Giữa rừng sâu, trong những lớp học tre nứa tạm bợ, dưới ánh đèn dầu leo lét, ông vừa dạy chữ, vừa cùng đồng đội lao động sản xuất và sẵn sàng chiến đấu.
Những năm tháng ấy hun đúc trong ông một tình yêu lớn: Yêu học trò, yêu đồng bào, yêu đất và người Tây Nguyên. Chính từ đây, ông viết nên những thi phẩm da diết, giàu cảm xúc về tình người giữa chiến tranh, như bài: “Đêm buôn Khanh” ghi lại đêm văn nghệ ấm áp do các học sinh người dân tộc thiểu số biểu diễn chào mừng Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11/1973 giữa núi rừng gian khổ: “Quần buộc túm sợi dây/ Áo rách bung từng mảng/ Củ mì theo năm tháng/ Nên có lạ gì đâu/ Rất xa và rất sâu/ Trong từng đôi mắt nhỏ/ Những Y Tim, Y Cố/ Những H Yêng, H Yun/ Là khát vọng bao trùm/ Là tiếng sông tiếng suối/ Là tiếng núi tiếng rừng/ Chuyển thành lời em ca/ Tiếng hát rung đêm xa/ Sao mắt tôi cay thế/ Phải mưa nguồn chớp bể/ Cuộn sóng lòng dâng lên…”.
Sau ngày đất nước thống nhất, Hữu Chỉnh ở lại Đắk Lắk, tiếp tục công tác trong ngành giáo dục, rồi giữ nhiều trọng trách: Giám đốc Công ty Sách - Thiết bị trường học, Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Đắk Lắk (1990 - 2000). Dù ở vị trí nào, ông vẫn một lòng với thi ca, với văn hóa Tây Nguyên, vùng đất mà ông coi là quê hương thứ hai.
Sự nghiệp sáng tác của Hữu Chỉnh với 7 tập thơ: “Nhân chứng một thời” (1992), “Em hái mùa xuân” (1993), “Lời yêu” (1994), “Tìm thấy nửa mình” (1995), “Vin vào câu hát” (1997), “Huyền thoại núi” (2006) và trường ca “Nước mắt Trường Sơn”. Ngoài ra, ông còn có tập “Cảm nhận bạn bè” (lý luận phê bình) và nhiều tác phẩm in chung.
Trường ca “Nước mắt Trường Sơn” là tác phẩm mà Hữu Chỉnh tâm đắc nhất. Ở đó, nhà thơ với tâm thế của người lính từng trải qua chiến tranh đã kể lại khá chi tiết hành trình vượt Trường Sơn với biết bao đau thương, mất mát và cả niềm vinh quang khi đất nước ca khúc khải hoàn. Đặc biệt, nhà thơ đã lấy mảnh đất Đắk Lắk làm hình tượng không gian nghệ thuật như “miền đất giấu lửa” để khái quát về những hy sinh, gian khổ và cả ý chí quật cường của cả dân tộc Việt Nam. Các chương “Vỗ lửa Trường Sơn”, “Lời ru bi đông” là những khúc tráng ca ghi lại sự hy sinh của bộ đội ta, vừa bi tráng, vừa nhân văn. Tác phẩm này đã được trao giải B Giải thưởng Chư Yang Sin (2019) của Hội Văn học Nghệ thuật Đắk Lắk.
Không chỉ thơ, nhà thơ Hữu Chỉnh còn nổi tiếng với lĩnh vực lý luận phê bình, văn xuôi, truyện ngắn và cả câu đối. Ông đã giành giải Nhất toàn quốc ở cuộc thi sáng tác câu đối nhân kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long năm 1999 - 2000: “Độc lập tự do khát vọng muôn đời, công Đảng quang vinh dành cho Tổ quốc - Hòa bình hạnh phúc niềm tin vạn thuở, ơn Bác thiên tài trao lại Nhân dân”.
![]() |
| Nhà thơ Hữu Chỉnh ký tặng sách cho độc giả. |
“Gặp quê hương trên mọi quê hương”
Bài thơ “Nghe câu Quan họ trên cao nguyên” của nhà thơ Hữu Chỉnh đã đi vào lòng người Việt Nam suốt hơn bốn thập kỷ, kể từ khi được nhạc sĩ Vũ Thiết phổ nhạc vào năm 1980.
Bài thơ ra đời từ một rung động rất thật, khi xem một liền chị quê Bắc Ninh biểu diễn trong một đêm văn nghệ. Khi cô gái cất lên làn điệu Quan họ tha thiết với câu: “Người về em vẫn khóc thầm/ Đôi bên vạt áo ướt đầm như mưa”, cảm xúc nhà thơ dâng trào và bài thơ ra đời trong cảm xúc ấy.
“Anh tệ thật, bao lần nghe Quan họ/ Mà lần nào cũng tưởng mới nguyên thôi... Gặp nhau đây, tình anh muốn ngỏ/ Mà khó nói sao... chỉ một lời yêu/ Con sông Cầu trong Quan họ đẹp ráng chiều/ Cứ dịu dàng như em, cô gái vùng Kinh Bắc/ Xui ta gặp mình giữa cao nguyên Đắk Lắk/ Gặp quê hương trên mọi quê hương”.
Câu thơ kết “Gặp quê hương trên mọi quê hương” không chỉ là điểm nhấn nghệ thuật mà còn là tuyên ngôn nhân sinh của nhà thơ. Trong thơ Hữu Chỉnh, tình yêu, con người và Tổ quốc luôn hòa quyện; mỗi con sông, đỉnh núi, làng buôn đều là quê hương, là máu thịt trong tâm hồn ông.
Từ chàng trai Hà Tây (Hà Nội) năm nào theo tiếng gọi Tổ quốc đến với Tây Nguyên và gắn bó trọn đời với Đắk Lắk, hành trình của nhà thơ Hữu Chỉnh là minh chứng cho một tấm lòng chung thủy với quê hương, với thơ và với con người. Là người đã đi qua những năm tháng chiến tranh, thấy bao thế hệ cha anh đã phải đổ máu xương cho đất nước có hòa bình, độc lập, có cuộc sống tươi đẹp như hôm nay, nhà thơ chỉ mong lớp trẻ ngày nay phải biết trân trọng, bảo vệ, giữ gìn và sống cho xứng đáng với những hy sinh, mất mát lớn lao ấy…
Trương Nhất Vương






























Ý kiến bạn đọc