Multimedia Đọc Báo in

Viêng Chăn sắc thắm nắng vàng

09:10, 27/07/2012

Đoàn chúng tôi sang Lào đúng vào dịp Tết cổ truyền Bun Pi May còn gọi là tết té nước (lễ hội Hốt Nặm) vào giữa tháng tư. Một chuyến du lịch "bụi" như Tây ba lô đi theo ngẫu hứng lại là một chuyến thám hiểm, khám phá đầy thú vị về đất nước anh em.

Chùa Thạt Luang ở Thủ đô Viêng Chăn.
Chùa Thạt Luang ở Thủ đô Viêng Chăn.

Buổi sáng Tết Lào ngày đầu năm mới mọi người lên chùa tắm cho các pho tượng Phật, buộc chỉ cổ tay xả hết chuyện ưu phiền rủi ro năm cũ. Không có sông suối thì lấy nước tắm cho nhau cốt để được may mắn khỏe mạnh và giàu sang hơn trong năm mới. Chính vì thế, người người ùa ra đường chúc phúc, té nước lên nhau không cần sự đồng ý của đối tác. Mọi người tâm niệm bỏ qua chuyện cũ, hướng tới cái mới và làm lại tất cả tốt đẹp hơn, những gì xấu xa vướng mắc phải được gột rửa chảy theo dòng nước.

Lào - đất nước nổi tiếng với lễ hội "té nước". Tôi bắt gặp nhiều cháu bé dùng súng nhựa để phun nước. Nước như là một biểu tượng của hòa bình, của sinh sôi nảy nở ngay đầu họng súng thật đáng yêu biết bao. Người Lào rất thích màu sắc. Ngoài trang phục ăn mặc, sắc màu chùa chiền, vào ngày hội té nước, họ còn pha trộn nhiều màu để phun lên thành xe dính bết như một lời chúc phúc gắn bó keo sơn vậy. Đến Lào, tôi rất thích hai sắc màu: màu xanh thăm thẳm của rừng và màu vàng huy hoàng tráng lệ, thiêng liêng của Phật. Đến đây, mới thấm thía câu thơ rất tài hoa của nhà thơ Hữu Thỉnh: “Thu hết mọi tiếng chuông trong một sắc áo vàng”. Quả vậy, khắp cái xứ sở này tôi rất ít nghe tiếng chuông chùa và đặc biệt không nghe cả tiếng còi xe ô tô nữa, mặc dù đây là đất nước có số lượng ô tô khá nhiều so với dân số. Người Lào biết nhường nhau cả khi đi đường, vội ở đâu thì chớ, chứ ra đường không được vội vàng chen lấn, tranh giành. Họ cho rằng cử chỉ bấm còi không chỉ làm ồn ào huyên náo đường phố mà còn mang ý nghĩa xua đuổi, tranh giành - tính xấu người Lào rất ghét.

Một góc nhà  lưu niệm Bác Hồ  ở tỉnh  Khăm Muộn  (Lào).
Một góc nhà lưu niệm Bác Hồ ở tỉnh Khăm Muộn (Lào).

Trong cái sắc vàng lặng im của đất nước Lào những ngày tháng tư này có một màu hoa ám ảnh tôi mãi. Hoa nở đúng vào dịp té nước, và rất nhiều xe ô tô đều treo những chùm hoa tươi rực rỡ vàng trong buồng lái của họ. Đó là hoa Đọc Khun. Màu vàng chanh sang trọng và kiều diễm khiến cả thành phố Viêng Chăn sáng lung linh. Người dân Lào đi lễ chùa đầu năm mới đã hái những chùm Đọc Khun thả vào chậu nước thơm để tắm Phật, dùng chùm hoa này nhúng vào nước thơm ban cho mọi người cùng hưởng phước lộc. Hoa Đọc Khun tươi rất lâu cả tháng trời. Những bông hoa khi rụng xuống vẫn giữ nguyên màu vàng tươi, khi người hốt rác đem những xác hoa đi, cái màu vàng ấy dường như vẫn còn lưu luyến, lấp lánh lưu giữ mãi trong ánh nắng vàng hồn hoa bình dị mà sang trọng sống hết mình, nở hết mình, tự nguyện dâng hiến như một quà tặng vô giá cho con người ở xứ sở này. Người Lào yêu hoa đặt tên cho Đọc Khun là “bông hoa phước” hay “bông phúc”. Khi được thả vào chậu nước thơm, những cánh hoa vàng ngấm tan trong nước thành một màu vàng chanh gần giống màu áo các nhà sư. Các sư trụ trì trong các ngôi chùa dùng các cành lá Đọc Khun nhúng vào thứ nước ấy rồi vẫy lên lưng người làm lễ tỏ ý ban phước với câu: “Kôi phỏn hay chao mi bun mi khun” (“Chúc các bạn luôn gặp may mắn phước lành”).

 Chúng tôi đến vào dịp tết nên được những người bạn Lào hiếu khách thết đãi nhiều món ăn Lào đặc sắc. Ngoài món bánh “khẩu tụm mắt” (giống bánh chưng của người Việt) có nhân quả chuối chín, gói bằng lá buộc lạt giang hay bánh gói “khẩu nốm mok” gồm bột nếp trộn với đường và nước dừa, còn có một món ăn đặc biệt mang lại sự may mắn là món Lạp - món ăn truyền thống trong lễ hội người Lào. Lạp được làm từ thịt động vật: thịt và cá được băm nhuyễn với rau bạc hà xắt nhỏ và nước cốt chanh ăn với các loại rau sống như húng, ngò gai. Món Lạp là một thứ ẩm thực tổng hợp vừa có vị chua, cay, béo, vừa có dư vị riêng được các đầu bếp có kinh nghiệm pha trộn bằng bàn tay khéo léo của mình để có thể đo lường thật chính xác hương vị bằng cả sự mẫn cảm tinh tế của mình, không thái quá, tất cả đều dìu dịu mà ngấm lâu như tình người Lào vậy. Ấn tượng với tôi trong bữa cơm của người Lào ngoài món xôi dẻo thơm là món canh chua bởi nhiều sắc màu của cà chua đỏ, của dọc mùng xanh, của đầu cá tươi nần nẫn, hôi hổi bốc khói và không bao giờ vắng một thứ lá chua như lá bứa mà chỉ ở Lào mới có. Nếu thiếu vị lá này bát canh chua không còn hồn vía nữa. Tết Bun Pi May cùng với những lễ hội tiễn nắng, gọi mưa như “Bun Băn Pay” (đốt pháo thăng thiên), thả cầu lửa như một chất keo gắn kết giữa chất thiêng huyền bí với chất men phấn khích xoắn quyện con người thành một cộng đồng gắn bó. “Khòi khòi pay” (Từ từ mà đi) là câu nói cửa miệng của người Lào. Trong nhà vợ chồng không to tiếng, không đánh mắng trẻ con, ra đường không vội vàng chen lấn, không thích dùng vũ lực. Họ chỉ thích hội hè, ca hát nhảy múa. Người Lào tiếp nhận đạo Phật một cách tự nhiên bình dị làm cho cuộc sống trở nên hiền hòa hạn chế được lòng tham, thói xấu. Tất cả cân bằng trên mọi bình diện, đó là cách ứng xử rất Lào: mềm mại, hài hòa một lối ứng xử khoan dung (tolézanice).

Ấn tượng với tôi trong chuyến đi này là những ngôi chùa Lào. Chùa là dấu ấn đặc sắc của văn hóa Lào. Ở đất nước Chùa Tháp, thanh niên trước khi lấy vợ thường đi tu ở chùa vài tháng đến vài năm. Nơi đây họ được học hỏi kiến thức, học nghề, học chữ và học cả tiếng Anh nữa. Ngôi chùa như một ngôi trường đầu đời để đào luyện con người bằng cái tâm tự nguyện của mình. Các nhà sư trụ trì thường là những nhà thông thái. Rất nhiều trẻ em Lào đã được gửi vào học ở chùa rất sớm. “Nhân chi sơ tính bản thiện” những bài học nhập môn vào đời bằng việc học điều thiện. Vì thế sau này lớn lên những cây non được ươm trên mảnh đất thiện tốt lành đó đã tạo ra những vóc dáng cho mình khỏe khoắn và an lành cả về thể hình và tư chất. Thanh niên Lào cũng có uống rượu, bia nhưng ít say. Uống trong ngày hội để có chất men tưng bừng ca hát. Cả nước Lào chỉ có một nhà máy bia duy nhất, đóng một loại chai duy nhất. Ở bất cứ quán ăn nào cũng chỉ có mỗi loại bia khoảng 700ml ấy. Hình thức đơn giản nhưng vị bia có nồng độ đậm. Người Lào uống nhâm nhi, uống như tận hưởng một thú vui, chứ không có cảnh ầm ĩ huyên náo.

Chúng tôi đã được chứng kiến những cuộc đua thuyền rồng, đó là con thuyền độc mộc khoét từ thân cây cổ thụ quý từ trên rừng già. Có thuyền sơn son thiếp vàng và khảm xà cừ với những nét hoa văn lạ mắt. Những phường bạn chèo chuyền hợp sức lại với nhau những mái chèo loang loáng ánh nước bạc. Thuyền lướt sóng tay bắt mặt mừng từ rừng đại ngàn ùa vào dòng chảy lớn của con sông Mẹ để dân làng bày tỏ sự tri ân với các vị thần nước, với tổ tiên đã phù hộ cho họ được yên ổn làm ăn. Những người không tham gia hội đua thuyền lại đón tết bằng cách rủ nhau ra bờ sông, xúc những xe cát đầy chở về đắp thành những núi cát nhỏ quanh những gốc cây cổ thụ nơi sân chùa. Đỉnh núi cát cắm cờ đuôi nheo, cờ phướn bằng những dải lụa nhiều sắc màu. Họ chăng trên đỉnh và sườn núi cát những dây chỉ ngũ sắc cầu nguyện sang năm mới có nhiều điều phúc. Nhiều gia đình trong những ngày này còn ra sông thả cá. Người Lào coi việc phóng sinh cá là ước vọng cho quê hương mình có những cánh đồng lúa thêm thơm, dưới sông nước đầy cá béo. Có một lễ hội được đông đảo người Lào tham gia trong ngày tết là rước nữ chúa xuân. Tập tục này có từ thời xa xưa. Nữ chúa xuân là nàng Xằng Khản, một trong bảy người con gái của thần Bốn mặt - vị thần có công đem những điều tốt lành cho dân Lào. Mỗi năm, trước lễ hội người ta thi hoa hậu để tuyển bảy cô gái đẹp người, đẹp nết, làm ăn chăm chỉ và giỏi giang trong cuộc sống. Đến giờ Hoàng đạo, đoàn rước nữ chúa xuân thật tưng bừng. Cô gái đóng Chúa Xuân một tay gươm, một tay cầm vòng lửa cùng 6 người em gái xiêm y rực rỡ ngồi trên xe mui trần trang hoàng lộng lẫy. Đi theo đoàn rước là dòng người nối tiếp nhau vừa đi vừa múa hát trong tiếng trống vang lừng. Tiếng trống và điệu nhảy lăm vông như một biểu tượng tràn đầy sức sống của người Lào. Tiếng trống căng từ các mặt gỗ mang cả âm vọng núi rừng. Hễ trống nổi lên là tay chân bắt đầu không yên, muốn nhảy múa. Có một luồng sinh khí nào đó chảy trong huyết quản của người Lào để họ được thoát xác tưng bừng và mê đắm.

Ngôi chùa thiêng mà bất cứ du khách nào đến Lào cũng ghé thăm để làm lễ buộc chỉ cổ tay là chùa Xỉ-Mương (Si Muang) cách đại lộ trung tâm 1 km. Đây là ngôi chùa thiêng nhất của Lào. Truyền thuyết ghi có một cô gái tên là Si Muang ở làng bên có thai ba tháng đến dự lễ hội hiến tế, không may sảy chân rơi xuống hố dành cho các trinh nữ tự nguyện nên mọi người cứ thế lấp đầy đất xuống. Khi phát hiện ra, nàng được cứu nhưng không thoát khỏi cái chết. Hiện nay trong chùa có ngôi mộ được coi là mộ của nàng Si Muang. Có một điều rất đặc biệt là ở đây một đôi chim Hồng hạc bay về và ở lại ngay trên đỉnh ngôi mộ dưới tán cây xanh tốt. Mặc dù ngôi chùa luôn nhộn nhịp người nhưng chim vẫn yên ổn trú ngụ, không tỏ ra sợ hãi. Đôi chim vươn cao cổ, xỏa cánh hiền từ nhìn mọi người cứ nhởn nhơ thanh thản như phong cách người Lào vậy. Nhẩn nha sống, nhẩn nha chơi, nhẩn nha lặng lẽ suy tưởng dường như là đặc điểm riêng của con người ở đất nước Triệu Voi. Chúng tôi làm lễ buộc chỉ cổ tay do một nhà sư còn khá trẻ trụ trì. Lễ buộc chỉ cổ tay chúc phúc thời ban đầu gọi là lễ cầu hồn, cầu cho người thân khi vừa ốm dậy hay sau một tai nạn, cho người đi xa lâu mới về, cho người mới sinh nở. Sợi chỉ buộc cổ tay có nghĩa là buộc hồn với thể xác mang ý nghĩa là lời cầu phúc, chúc phúc tốt lành. Đây cũng là nét văn hóa bình dân độc đáo có một không hai. Sau khi buộc chỉ phải giữ quá ba ngày mới được tháo ra và treo lên chỗ trang trọng trong phòng làm việc. Ở giữa sân chùa Xỉ-Mương có máng hình con rắn thần Naga để tắm cho tượng Phật. Người Lào gọi nghi thức đó là “Xống nặm” (Giữ nước). Dòng nước chạy dọc theo thân rắn gỗ róc rách như dòng suối nhỏ chở hương thơm thấm vào pho tượng Phật.

Chúng tôi còn đến thăm chùa Wat-si-sa-kẹt (còn gọi là chùa Triệu tượng) được xây năm 1818. Tượng Phật ở đây rất nhiều, từ tượng bằng ngón tay đến tượng to cao 3 mét bằng đồng đen, đất sét, gỗ. Người Lào không bao giờ xem tượng là đồng nát mang đi nấu chảy để lấy đồng. Kho tượng như một kho hồi ức vô giá của họ. Cách thủ đô Viêng Chăn 27km còn có vườn Phật lưu giữ hàng trăm bức tượng (tên gọi khác là Suốn Phụt). Vườn Phật do vị sư tên là Bun-le-ua-su-li-at xây năm 1958 gồm 200 bức tượng bằng bê tông có nhiều tượng voi đặc sắc, có tượng voi 3 đầu lớn nhất nước Lào. Tượng ở đây phong phú về dáng cách điệu, có tượng các nhà sư đi khất thực hay hình vũ nữ rất sinh động. ấn tượng nhất là bức tượng Phật nằm dài 50m; quả bí ngô khổng lồ thể hiện đường từ địa ngục lên thiên đường với 3 tầng có đường xoắn ốc cho khách tham quan đi vào bên trong. Một ngôi chùa được xem là biểu tượng quốc gia in trên tiền giấy và quốc huy Lào được xây 1566 dưới triều vua Xịt-thả-thi-lạt là chùa That Luang. Mô hình chùa như một nậm rượu trên phế tích của một ngôi đền Ấn Độ thế kỷ thứ 13, bên ngoài được dát vàng. Tương truyền trong tháp có lưu giữ xá lợi của đức Phật, là một sợi tóc và rất nhiều châu báu. Chùa Thạt Luang có tháp chính cao 45m, bao quanh là các tháp phụ sơn son thiếp vàng rực rỡ trang nghiêm.

Tạm biệt Viêng Chăn, tạm biệt thành phố trăng rằm nằm ở tả ngạn sông Mê Kông phía tây bắc nước Lào, tôi mang theo mấy hạt giống hoa Đọc Khun về ở vùng đất biển gió Lào quê tôi. Hoa như một biểu tượng sức sống của sắc nắng vàng Viêng Chăn. Có một Viêng Chăn gần gũi như dòng sông Mê Kông vẫn chảy bên lòng.

Nguyễn Ngọc Phú


Ý kiến bạn đọc